11/13/09

NEPOMUK - một cách tổ chức, chia sẻ dữ liệu mới.


NEPOMUK - một cách tổ chức, chia sẻ dữ liệu mới.


I. Hai vấn đề hiện tại


I.1-Tổ chức, quản lý và tìm kiếm dữ liệu cá nhân


Giả sử bạn đang thực hiện một công việc (task A) nào đó trên máy tính. Các dữ liệu liên quan đến công việc đó gồm có:





  • Các file văn bản, hình vẽ, ảnh, … được tập hợp trong một thư mục task A mở trong phần mềm Dolphin.




  • Các cá nhân có liên quan được tập hợp trong một Distribution List cũng có tên là task A trong sổ địa chỉ Contacts của phần mềm Kontact.




  • Các email trao đổi về công việc đó được tập hợp trong một thư mục task A của Inbox hoặc trong một thread có chung subject là task A của phần mềm KMail.




  • Các trang web liên quan được tập hợp trong một thư mục task A của Bookmarks của phần mềm Firefox.




  • v.v... và v.v...




Dữ liệu liên quan đến một công việc nằm rải rác trong nhiều format, nhiều ứng dụng và được tập hợp trong nhiều chỗ khác nhau.


Như vậy khó tìm kiếm, mất thì giờ và dữ liệu không có liên kết với nhau.



I.2-Tìm dữ liệu cho mình hoặc chia sẻ dữ liệu cho người khác


Những dữ liệu nói trên, ngoài tên file, subject của email hoặc địa chỉ trang web, có rất ít thông tin hiển thị ra ngoài. Ngay cả người tạo ra dữ liệu đó, nếu lâu ngày cũng không nhớ nội dung nó nói gì.


Vì vậy khi tìm kiếm mất rất nhiều thì giờ. Một trong những điển hình là khi Google Search theo các từ khóa nào đó mất nhiều công mở từng trang web trong kết quả tìm kiếm mới phát hiện được trang cần thiết.


Một trong những cách để khắc phục là có các công cụ để người tạo ra dữ liệu hoặc người đã dùng nó:





  • Ghi chú thêm thông tin (annotate - chú giải) về dữ liệu dưới dạng gán từ khóa (tag), comment hoặc note và các dạng thông tin khác nữa đi kèm với file.




  • Những thông tin thêm đó phải có nghĩa (semantic), đọc được và tìm kiếm được (queryable) bằng các công cụ tìm kiếm.




Ví dụ: một bức ảnh về Hồ Hoàn kiếm, khi chia sẻ lên mạng nếu được gán các tag “phong cảnh”, “Hà nội”, “Việt nam” v.v..., một người nước ngoài tìm ảnh theo các từ khóa trên sẽ nhận thấy ngay đây là cái mình cần trước khi mở ảnh ra xem. Nếu có người đã xem, cho một comment “ảnh đẹp” thì lại càng đáng mở ảnh. Rõ ràng như vậy tiện hơn nhiều khi chỉ có mỗi tên file “Hoan Kiem lake.jpg”.


Văn bản giấy khi xếp trong các cặp hồ sơ là tổ chức giống kiểu thư mục máy tính. Nhưng phần trích yếu V/v và các mẩu giấy notepad dán vào chính là một dạng ghi chú thêm như trên, có điều công cụ tìm kiếm là bằng mắt.


Việc ghi chú như trên tạo thuận lợi cho chính người lập ra dữ liệu và người được chia sẻ nhưng đòi hỏi phải thay đổi thói quen, mất thêm thì giờ khi lưu dữ liệu. Bản thân tôi khi viết blog cũng rất ngại phần tag.



II. Dự án NEPOMUK.


Một trong những tính năng mới được giới thiệu trong Mandriva 2010.0 là Smart Desktop mà theo lời hãng giới thiệu một cách ngắn gọn thì:


Máy tính của bạn sẽ thông minh hơn, hỗ trợ bạn trong công việc hàng ngày. Bạn có nhiều tài liệu, thư từ, dữ liệu, ảnh, video. Giờ bạn có thể tổ chức chúng theo các dự án (task) . Có thể ghi chú, bình luận, gán từ khóa chỉ bằng vài lần kích chuột.


Nhờ thế, dữ liệu sẽ luôn tìm được dễ hơn nhiều khi bạn cần đến chúng


Smart Desktop xây dựng trên nền tảng của NEPOMUK tên viết tắt của “ Networked Environment for Personalized, Ontology-based Management of Unified Knowledge” tạm dịch là “ Môi trường kết nối mạng quản lý kiến thức thống nhất trên cơ sở bản thể luận cá biệt hóa”. Nghe hơi triết và ù tai!


NEPOMUK là một dự án phần mềm nguồn mở hiện thời trị giá $17 triệu, trong đó Liên minh châu Âu (EU) tài trợ $11,5 triệu. Như thế cũng đủ biết nó là một dự án lớn và quan trọng.



Hình 1: Logo của NEPOMUK


Mục tiêu của dự án là NEPOMUK xây dựng và triển khai một giải pháp toàn diện (gồm các phương pháp, các cấu trúc dữ liệu và một bộ công cụ) để hòa nhập máy tính cá nhân vào môi trường cộng tác, cải tiến việc cộng tác qua mạng, cải tiến việc quản lý dữ liệu cá nhân và tăng cường hiểu biết của con người bằng cách cung cấp và tổ chức thông tin do cá nhân và tập thể tạo ra.


Đại khái thì Nepomuk giúp cho việc quản lý và tìm kiếm dữ liệu cá nhân dễ hơn, đầy đủ hơn (khác cách quản lý theo file hiện thời) và dễ chia sẻ hơn qua mạng .


Giải pháp toàn diện nói ở trên được gọi là Social Semantic Desktop , khó mà dịch ra tiếng Việt một cách ngắn gọn dễ hiểu được. Nó gồm:



Về máy tính:


Mục tiêu của NEPOMUK là xây dựng các phương pháp, cấu trúc dữ liệu và các dịch vụ cần thiết để:





  • Ghi chú vào và link các thông tin bất kỳ, ở mọi loại file, trong mọi ứng dụng và trên mọi thiết bị lưu trữ trên máy tính




  • Biểu diễn rõ ràng và trực quan các suy nghĩ của người dùng và biến chúng thành thông tin có nghĩa. Sẽ dùng công nghệ wiki và tích hợp nó với cơ chế ghi chú.




  • Tích hợp việc tạo và xử lý nội dung với cách người dùng tổ chức công việc. Quan điểm chính là tích hợp phương pháp mô hình xử lý agile với việc tạo và tổ chức thông tin.




Ví dụ: một file ảnh thông thường chỉ có một thông tin có nghĩa và tìm kiếm được là tên file nhưng cũng rất không đầy đủ. Nepomuk sẽ cho phép người dùng bổ xung thêm (annotate) thông tin có nghĩa (semantic) và tìm kiếm được (queryable) vào ảnh đó.



Về mặt xã hội (social aspect)


Để đáp ứng việc kết nối và trao đổi với các máy tính khác, NEPOMUK sẽ xây dựng:





  • Các công cụ để xây dựng các quan hệ xã hội và trao đổi kiến thức hỗ trợ việc chia sẻ kiến thức trong một cộng đồng. Người dùng không chỉ trao đổi hồ sơ và các mẩu thông tin cô lập mà còn tất cả các thông tin liên hệ và sự đóng góp của cộng đồng vào đó.




  • Các kỹ thuật để tìm kiếm và lưu trữ thông tin nằm rải rác trên mạng, tập hợp thành kho lưu trữ thông tin chung cho cộng đồng.




Dự án này tương đối mới và còn đang trong giai đoạn phát triển. Mới có một phần các mục tiêu trên thực hiện được. Hiện nay, nó đã triển khai được bước đầu (tổ chức lại thông tin) trong KDE4 và trên Java.


GNOME cũng đang có một dự án kiểu này, dự kiến sẽ ra mắt trong GNOME3, trong đó có sự đóng góp ý tưởng của một bạn người Việt (Le Hoang Nhi), xem thêm ở đây .





III.Smart Desktop trong Mandriva 2010.0 KDE.


Mandriva 2010.0 KDE đã tích hợp NEPOMUK như một tính năng mới.

III.1-Cài đặt:


Mở Install & Remove Software, cài thêm soprano-plugin-redland, soprano-plugin-sesam2, gõ từ “ nepomuk” rồi chọn cài tất cả những gói chưa cài trong đó, trừ ba gói nepomuk-scribo-devel, libepomuk-contact4, libepomukpeopletag0 (hai gói sau bị lỗi không cài được nên phần contact chưa dùng được ở các mục dưới đây).

Mở Configure Your Desktop > Advanced > Desktop Search > Basic Settings rồi đánh dấu chọn hai mục Enable Nepomuk Semantic Desktop Enable Strigi Desktop File Indexer.


Chuyển sang tab Advanced Settings rồi thay đổi thư mục cần tìm kiếm (nếu cần). Mặc định là thư mục /home/<username> . Thư mục quy định ở đây là thư mục chứa dữ liệu hay tìm kiếm nhất (ví dụ My Documents) để trình tìm kiếm Strigi lập chỉ mục (index) trước, khi tìm sẽ nhanh.


Làm xong các bước trên, nhấn nút Apply, biểu tượng của Nepomuk sẽ xuất hiện trên panel và việc lập chỉ mục bắt đầu. Tùy theo dung lượng thư mục, thời gian lập chỉ mục có thể mất vài tiếng và máy sẽ hơi chậm.


Khi đã lập chỉ mục xong, mỗi lần có file mới hoặc file bị thay đổi, chỉ mục sẽ tự động cập nhật.



III.2-Siêu dữ liệu (metadata)


Mỗi dữ liệu (data: một file, một email, một trang web, v.v...) đều có thể có ba loại siêu dữ liệu (metadata) sau:





  • Metadata có sẵn đi kèm với file lưu trên ổ cứng: các thuộc tính (properties: tên file, đường dẫn, dung lượng, ...), các từ khóa tag gán cho file audio, các mốc thời gian khởi tạo, truy cập và sửa, các đoạn text chỉ mục (index), … Các công cụ tìm kiếm như Beagle, Strigi có thể tách các metadata đó và lập chỉ mục được để tìm kiếm cho nhanh.




  • Metadata do người dùng tạo ra gán cho dữ liệu: comment hoặc note vào file hoặc email, gán từ khóa (tag), chấm điểm (Numeric rating) file.




  • Metadata không thuộc hai loại trên, ví dụ: đường link gốc của một file tải về từ Internet, kết nối của một file đính kèm theo email. Một khi những file trên đã lưu trên ổ cứng thì các kết nối trên bị mất, không thể biết file được tải về từ đâu hoặc nằm trong email nào.




NEPOMUK cung cấp các công cụ để tạo, quản lý, tìm kiếm các loại metadata đó.


Hiện nay một số chương trình cũng có công cụ để người dùng ghi chú (tag, note, comment) vào dữ liệu. Nhưng những ghi chú đó chỉ đọc và tìm kiếm được trong nội bộ một chương trình đó. Các ghi chú của Nepomuk có giá trị liên chương trình (cross-applications), có thể đọc và tìm kiếm được trên mọi phần mềm có tích hợp Nepomuk.



III.3-Tổ chức thông tin theo công việc (task):


Nhấn phím phải chuột vào Panel, chọn Panel Settings rồi chọn tiếp Add Widgets. Trong danh sách các widgets, chọn Task Management Widget rồi nhấn nút Add, các icon sau xuất hiện trên panel:



Nhấn vào icon bên trái để chạy chương trình Tasktop. Đây là bước đầu cho một cách tổ chức dữ liệu mới. Tasktop cho phép tập hợp tất cả các dữ liệu có liên quan với một Task về một mối.



Nhấn vào New Task để tạo Task. Sau đó nhấn vào các nút dấu cộng để gán các dữ liệu liên quan vào Task. Tuy nhiên, hiện chỉ có mỗi phần Files hoạt động được. Contact thì không do không cài được hai file đã nói ở trên. Email và Web Pages phải gán từ KMail và Konqueror (xem bên dưới).


Một Task có thể gồm nhiều Task con bên dưới.


Còn một cách tổ chức dữ liệu nữa là dựa trên Tag. Mọi dữ liệu được gán chung một Tag, khi dùng Nepomuk Search sẽ tập hợp chung lại một chỗ.



III.4-Tích hợp với trình duyệt file Dolphin:


III.4.1-Ghi chú thêm vào file:



Trong Dolphin, người dùng có thể thêm “ý kiến” của mình đối với mỗi file bằng ba loại metadata (xem hình bên, cột Infomation ở bên phải màn hình Dolphin):





  • Chấm điểm file (Numeric rating): nhấn vào các hình sao ở cột bên phải. Mỗi sao là 2 điểm. Kết quả hiện ở bên dưới, ví dụ ảnh trong hình có Numeric rating=9. Loại metadata này để người dùng đánh giá nội dung file.




  • Ghi chú (comments): file chưa có ghi chú thì bên dưới dãy sao có Add comment. Nhấn vào đó để thêm ghi chú tùy ý. Sau đó, nội dung ghi chú hiện lên bên dưới dãy sao như hình trên.




  • Gán từ khóa (tag) cho file: từ khóa ở đây là các từ khóa có liên quan đến file. Trong ví dụ trên, file được gán từ khóa “Ảnh màn hình” và “compiz”. Có thể nhấn vào Change Tags để thêm nhiều từ khóa nữa hoặc xóa bớt.




Khi nhấn chuột phải vào một file, chọn tiếp Actions trong menu con, sẽ có ba mục mới trong menu kế tiếp:






  • Associate to task:
    gán file vào một công việc. Chi tiết xem bên dưới.




  • Annotate: Ghi chú vào file. Đây là lệnh cao cấp có rất nhiều kiểu trường ghi chú ngoài comment và tag nói trên.




  • Run semantic analysis: tìm các thông tin có nghĩa bên ngoài nội dung file.




III.4.2-Tập hợp dữ liệu theo tag:



Nhấn Ctrl+L để chuyển thanh địa chỉ của Dolphin sang dạng edit được. Gõ vào đó lệnh tìm kiếm như trên hình. Kết quả bên dưới là hai file có tag compiz.



III.5-Tích hợp với Kontacts


Mỗi email trong KMail có thể gán tag, comment và liên kết với một task được. Mỗi địa chỉ trong Contacts cũng vậy (nhưng hiện chưa làm được vì các file tương ứng bị lỗi chưa cài được như nói ở trên).



III.6-Tích hợp với trình duyệt web Konqueror


Mỗi trang web mở trong Konqueror, khi nhấn chuột phải sẽ xuất hiện các menu sau:



Theo menu trên, với mỗi trang web có thể (cũng tương tự như với file):





  • Rate this page: chấm điểm (numeric rating) như với file đã nói ở trên.




  • Tag this page: gán từ khóa vào trang.




  • Associate to task: liên kết trang vào một công việc.




Ngay trên toolbar cũng có hai nút lệnh liên quan đến Nepomuk.


Trình duyệt Firefox và trình thư điện tử Thunderbird cũng có một extension là nepomuk-mozilla nhưng hiện chưa tương thích với Firefox 3.5



III.7-Tìm kiếm bằng Nepomuk + Strigi


Strigi là trình tìm kiếm mặc định trong KDE4 được tích hợp vào trình duyệt file Dolphin (không có lệnh chạy riêng). Hiện tại, strigi được tích hợp với Nepomuk, lập chỉ mục và tìm kiếm được trên:





  • Tên file và trong nội dung file (ODF hoặc Microsoft Office). Tìm được cả các từ tiếng Việt unicode bên trong file.




  • Các comment hoặc tag của file. Tìm được các từ tiếng Việt trong comment nhưng không tìm được các tag tiếng Việt.




  • Không tìm được trong Kmail.




  • Ví dụ một lệnh tìm trong nội dung file (xem hình dưới).





Gõ từ “thú chơi” vào ô Search ở bên phải toolbar như trong hình. Kết quả tìm được file “Cac dai cong ty va phan mem nguon mo.doc”.


Còn một phần mềm tìm kiếm nữa là KFind (trong Dolphin: Tools > Find Files). KFind có nhiều options tìm hơn Strigi (tìm theo ngày tháng, dung lượng file v.v..) và tìm được từ tiếng Việt bên trong các file ODF, nhưng không tìm được trong các file Microsoft Office. KFind không có liên hệ gì với Nepomuk.



III.8-Nepomuk Shell



Nepomuk Shell là một chương trình tổng hợp quản lý mọi thứ có trong Nepomuk. Chạy nó từ Run Command với lệnh nepomukshell.



IV. Kết luận


Nepomuk là một dự án lớn, đầy tham vọng hiện mới thực hiện được một phần. Mandriva có lẽ là bản Linux đầu tiên tích hợp nó vào ở mức độ đáng kể như trình bày ở trên (Các bản Linux KDE khác chắc cũng có thể cài bổ xung Nepomuk nếu chưa có). Tuy nhiên vì là bước đầu nên các tiện ích còn chưa hoàn thiện, giao diện chưa thân thiện, dễ dùng, nhiều khái niệm khá mới và phức tạp với người dùng bình thường.


Nhưng triển vọng thì rất sáng sủa. Chúng ta cùng chờ xem.



11/5/09

Khôi phục khởi động vào Ubuntu 9.10 sau khi cài lại Windows


0- Đôi điều về GRUB2


Bắt đầu từ Ubuntu 9.10, chương trình GRUB2 được dùng thay cho GRUB1 phổ biến xưa nay. GRUB2 được viết lại từ đầu, không phải bản nâng cấp của GRUB1 do đó có nhiều điểm khác so với GRUB1. Vì vậy tìm hiểu để làm chủ được nó là cần thiết.


GRUB (viết tắt của GRand Unified Bootloader) là chương trình khởi động hệ điều hành (bootloader) dùng phổ biến ở các hệ điều hành kiểu Unix: Linux, Solaris. Windows dùng bootloader là NTLDR. Nhiệm vụ của bootloader là tải hệ điều hành vào RAM sau đó trao quyền điều khiển máy tính cho hệ điều hành.


Khi máy tính khởi động, đầu tiên nó đọc ROM BIOS để tìm xem khởi động từ thiết bị nào (CDROM, ổ cứng, ổ mềm, ổ USB hay mạng). Tiếp theo, nó tải chương trình GRUB stage 1 từ Master Boot Record (MBR) của thiết bị đó vào RAM, sau đó GRUB stage 1 chỉ làm mỗi một việc là tìm GRUB stage 2 trên thiết bị khởi động, tải tiếp nó vào RAM và chuyển quyền điều khiển cho GRUB stage 2.


GRUB stage 2 sẽ cho hiện boot menu để người dùng chọn khởi động hệ điều hành nào đang có trên ổ cứng.


Lệnh cài GRUB stage 1 là “grub-install”. File cấu hình của GRUB stage 2 với Ubuntu (trước 9.10), Debian, openSUSE là /boot/grub/menu.lst; với Fedora là /boot/grub/grub.conf; với Ubuntu 9.10 là /boot/grub/grub.cfg/etc/default/grub.


Đặc biệt, người dùng không được phép chỉnh sửa /boot/grub/grub.cfg như với menu.lst.


1- Khôi phục GRUB2 sau khi cài lại Windows:


Khi cài chung Ubuntu 9.10 và Windows trên cùng một máy, có khi sau đó phải cài lại Windows vì virus, hỏng file, v.v... Windows sẽ ghi đè lên MBR, do đó khi khởi động máy chỉ vào thẳng Windows mà không có boot menu để chọn, do đó không khởi động được Ubuntu nữa.


Để khôi phục lại boot menu, theo một trong hai cách sau:


Cách 1: dùng đĩa CD của Ubuntu 9.10.


Boot máy bằng đĩa CD Ubuntu 9.10. Khi khởi động xong, mở Terminal ( Applications > Accessories > Terminal) rồi chạy lần lượt các lệnh sau:


(Giả sử Ubuntu cài trên partition sda3 của ổ cứng sda)


sudo -i(để chuyển sang user root).


mount /dev/sda3 /mnt


grub-install --root-directory=/mnt/ /dev/sda


mount --bind /proc /mnt/proc


mount --bind /dev /mnt/dev


mount --bind /sys /mnt/sys


chroot /mnt update-grub


umount /mnt/sys


umount /mnt/dev


umount /mnt/proc


exit


Cách 2: Dùng chương trình grub4dos


Tải file zip mới nhất của grub4dos từ đây. Giải nén ra.


Với Windows XP:


Copy file grldr trong gói grub4dos vào C:\. Mở file ẩn boot.ini và thêm dòng sau vào file:



c:\grldr=”grub4dos”

Với Windows Vista và Windows 7:


Copy hai file grldr,grldr.mbr vào C:\. Tạo file boot.ini tại C:\ rồi copy và paste đoạn mã sau vào trong file:



[boot loader]
timeout=0
default=c:\grldr.mbr
[operating systems]
C:\grldr.mbr=”Grub4Dos”

Tạo file menu.lst trong C:\ , copy và paste đoạn mã sau vào trong file:



timeout 0
default 0
title grub2
find
--set-root /boot/grub/core.img
kernel /boot/grub/core.img
boot

Khởi động lại máy, chọn boot từ Grub4Dos. rồi chọn tiếp boot vào Ubuntu từ boot menu. Sau khi đã login vào Ubuntu, chạy lệnh sau trong Terminal để cài lại grub vào MBR:


sudo grub-install /dev/sda


2- Sửa một vài thông số khởi động.


Trong Ubuntu 9.10, nhấn Alt+F2 rồi chạy lệnh sau để mở file:


gksu gedit /etc/default/grub


Trong file này có một số thông số thay đổi được:


GRUB_DEFAULT=0 Trị số 0 quy định hệ điều hành tự động khởi động là ở hàng đầu tiên của boot menu , tức là Ubuntu 9.10. Muốn Windows khởi động tự động, xem nó ở hàng thứ mấy (đếm từ 0) trong boot menu rồi thay giá trị đó vào đây.


GRUB_TIMEOUT="10" 10 giây là thời gian boot menu chờ người dùng chọn hệ điều hành, nếu không chọn, hệ điều hành quy định ở GRUB_DEFAULT sẽ được khởi động. Muốn nhanh hơn có thể thay giá trị thấp hơn, ví dụ 5.


Sau khi sửa file nói trên, cần mở terminal chạy lại lệnh sudo update-grub.


3- Sửa file /boot/grub/grub.cfg


Mặc dù file này được bảo vệ rất kỹ, nhưng vẫn có thể sửa được với các lệnh sau:


sudo chmod +w /boot/grub/grub.cfg


sudo nano /boot/grub/grub.cfg


Ví dụ: khi trên máy đã cài Mandriva, sau khi cài Ubuntu 9.10 mặc dù trong boot menu có dòng dành cho Mandriva nhưng khi chọn nó thì Mandriva không khởi động được.


Nếu mở file grub.cfg như trên thì thấy đoạn dành cho Mandriva như sau:


menuentry "linux (on /dev/sda6)" {


insmod ext2


set root=(hd0,6)


search --no-floppy --fs-uuid --set 4c7b246a-654d-447d-8e6d-1b0b39f66eb1


linux /boot/vmlinuz BOOT_IMAGE=linux root=UUID=4c7b246a-654d-447d-8e6d-1b0b39f66eb1 splash=silent vga=788


initrd (hd0,5)/boot/initrd.img


}


Sửa lại dòng initrd (hd0,5) thành initrd (hd0,6) giống như dòng set root = (hd0,6) ở trên là boot vào Mandriva được.


Sửa tiếp dòng linux (on /dev/sda6) thành Mandriva (on /dev/sda6) để hiện tên Mandriva trên boot menu.


Chi tiết hơn về GRUB2 xem tại đây. và tại đây.







11/3/09

Làm gì sau khi cài xong UBUNTU 9.10 (và các bản Linux khác)


LÀM GÌ SAU KHI CÀI XONG UBUNTU 9.10 (và các bản Linux khác)


Ubuntu 9.10 bản chính thức đã khắc phục được các lỗi 1,2,3 của bản beta nêu ở đây. Sau khi cài xong, nếu muốn chung sống với các bản Linux khác đã cài dùng grub1, xem hướng dẫn ở đây.


Sau khi cài xong Ubuntu từ đĩa CD, khởi động lại máy, tôi làm các việc sau đây (một số cái áp dụng được cho cả các bản Linux khác):


1- Cài đặt kết nối mạng:


Nếu mạng không cần cài (tự cấp IP), tự kết nối thì biểu tượng của Network Manager trên panel như thế này . Nếu chưa kết nối, biểu tượng sẽ như thế này (hơi khó nhìn).


Với bản Ubuntu chính thức, Network Manager đã làm việc tốt kể cả khi cài đặt mạng với IP tĩnh. Nhấn phím phải chuột vào biểu tượng trên, chọn Connection Information để xem các thông số về mạng.


2- Chọn lại kho phần mềm:


Khi cài, Ubuntu đã chọn kho phần mềm mặc định là Server for Vietnam (vn.archives.ubuntu.com) nhưng kho này không nhanh. Nhấn chuột vào System > Administration > Software Sources > Download from > Other rồi cuốn xuống cuối danh sách, mục Vietnam để chọn kho của FPT.


3- Cài đặt thêm một số phần mềm:


Nhấn vào menu System > Administration > Synaptic Package Manager rồi chọn cài các gói phần mềm sau:




  • ubuntu-restricted-extra: để bổ xung một số phần mềm “có vấn đề” theo định nghĩa nguồn mở : flash plugin, một số font của Microsoft, một số codecs để chơi file multimedia, trình giải nén unrar, …

  • scim-bridge-client-gtk: để cài bộ gõ tiếng Việt scim-unikey. Bộ gõ ibus cài sẵn trong Ubuntu 9.10 có nhược điểm phải có phím kết thúc từ, chưa nên dùng.

  • Stardict-gnome: chương trình từ điển Stardict.

  • openoffice.org: chọn cài riêng gói này để bổ xung một số gói còn thiếu của OpenOffice.org

  • catdoc và wv: cài hai gói này để chuẩn bị cài Google Desktop Search.

  • pysdm: chương trình dùng mount tự động các partition khác trên ổ cứng vào thư mục do người dùng chọn.

  • Multimedia: Ubuntu có cài sẵn trình mediaplayer là Totem (Applications > Sound & Video > Movie Player). Nếu dùng Totem thì kiểm tra xem các gói gstreamer-plugins-good, bad và ugly (kể cả bad-multiverse và ugly-multiverse) đã cài chưa. Nhưng nên cài một trong những trình mediaplayer hay nhất hiện nay là Smplayer (và cả gecko-mediaplayer là plugin để chơi media trong Firefox).

  • sun-java6-plugin: chọn cài gói này để cải toàn bộ môi trường Java cần thiết cho các tính năng cao cấp của Openoffice.org và Firefox.

  • Peazip: đây là một trình nén và giải nén hay đã nói ở đây. Gói cài đặt không có trong kho của Ubuntu, tải về cài từ đây. Sau khi cài xong, chạy từ Applications > System Tools > peazip.desktop.

  • UDATE: tôi quên Perfectbuntu. Chạy nó để cài cả ubuntu-restricted-extra và nhiều cái khác nữa, đầy đủ hơn. Tải về tại đây. Nhấn phím phải chuột vào "Download Current Version", chọn Save Link As rồi ghi nó thành file perfectbuntu. Mở thư mục có file, nhấn phím phải chuột vào file, chọn Propeties > Permissions rồi đánh dấu chọn mục Allow executing file as program. Mỏ terminal, chuyển đến thư mục có file rồi chạy lệnh sudo ./perfectbuntu và trả lời các câu hỏi trên màn hình.


4- Cài đặt và cấu hình tiếp


a- Bộ gõ tiếng Việt scim-unikey: tải về từ đây hoặc add kho phần mềm của Ubuntu-VN theo hướng dẫn cũng tại link đó rồi cài bằng Synaptic. Cài từ kho thì có lợi là khi có bản cập nhật sẽ được tự động báo.


Sau khi cài, nhấn vào System > Administration > Language Support rồi trong mục Keyboard input method system chọn scim-bridge xong đóng màn hình lại.


Vào tiếp menu System > Preferences > SCIM Input Method Setup đặt các thiết lập sau:




  • FrontEnd > Global Setup: chọn Share the same input method

  • IMEngine > Global Setup: chọn UnikeyEnglish\European, các mục khác bỏ.

  • Panel > GTK: chọn các mục Show on Demand, Auto snap, Show stick icon, Show tray icon và Stick Windows.


Scim-unikey trong Ubuntu 9.10 có một lỗi nhỏ là tray icon (hình vuông màu da cam) không hiện được trên panel như ở các bản Ubuntu trước. Do đó phải cho hiện GTK panel (mục show on demand ở trên) để có thể điều khiển và biết tình trạng bộ gõ. Trong các bản trước, có thể tắt GTK panel (Show Never) chỉ cần dựa vào tray icon là đủ.


b-Cài các file từ điển tiếng Việt: có trong kho của Ubuntu-VN đã nói ở trên.


c- Cài các add-on của OpenOffice: tùy theo nhu cầu. Xem một số post về add-on trong blog này.


d- Mount các partition: nếu trên ổ cứng có một partition NTFS chứa thư mục MyDocuments của Windows thì vào System > Administration > Storage Device Manager mount cố định nó vào thư mục /home/<username>/DATA. Sau đó, mở thư mục DATA bằng Nautilus rồi mở tiếp MyDocument và Add Bookmark để MyDocument xuất hiện ở cột bên trái, mở cho nhanh. Lệnh mount trên chỉ cần làm một lần và được ghi vào file /etc/fstab. Lần sau khởi động sẽ tự mount.


e- Cài trình tìm kiếm Google Desktop Search: trình tìm kiếm có sẵn (Applications > Accessories > Search for file) chậm và không tìm được từ tiếng Việt unicode bên trong file. Google Desktop Search lập index sẵn nên tìm rất nhanh, tìm được cả tiếng Việt unicode bên trong file (VNI và ABC chưa thử), đồng thời tìm được trong Gmail.


Tải về cài từ đây. Sau khi cài, vào Applications > Google Desktop > Google Desktop Preferences để cấu hình. Mở màn hình tìm kiếm bằng cách nhấn hai lần phím Ctrl.


f- Cấu hình OpenOffice:


Trong Writer, nhấn vào Tools > Options để mở màn hình Options và thiết lập các mục sau:




  • Memory: thiết lập như hình sau. Nhớ chọn Enable systray Quickstarter để khởi động OpenOffice cho nhanh.


Trong mục Paths bên dưới Memory, chọn tiếp My Documents ở ô bên phải rồi nhấn nút Edit để chỉnh đường dẫn mặc định về thư mục của mình, ví dụ /home/zxc/DATA/My Documents.




  • Java: nếu dùng đến các tính năng cần Java (Mail merge,...) thì đánh dấu chọn mục Use a Java. Nếu không thì bỏ chọn để OpenOffice chạy nhanh hơn.

  • Load/Save > General: chọn Always Create backup copy và chỉnh thời gian AutoRecovery xuống 5 phút cho khỏi mất dữ liệu. Mục Document Type nên để nguyên các định dạng file ODF nếu không hay giao lưu file với các máy khác dùng Windows, định dạng ODF có dung lượng file nhỏ hơn và điều quan trọng là nó là format mặc định của OpenOffice, do đó khi save không bị mất các format đã làm, mở cũng nhanh hơn.

  • Thay style của toolbar: toolbar của OpenOffice trong Ubuntu có style mặc định là human. Nếu thích có thể cài thêm các style khác trong kho phần mềm: openoffice-style-crystal, openoffice-style-industrial, v.v... Sau khi cài xong, mở Options > OpenOffice.org > View > Icon size and style rồi chọn trong danh sách thả xuống bên phải.


Còn nhiều thứ nữa, có lẽ nên dành cho một post riêng.


g- Cài Dropbox và Ubuntu One: hai dịch vụ này có cùng một tính năng: tự động sao lưu dữ liệu của một thư mục lên Internet và tự động đồng bộ thư mục đó trên nhiều máy khác nhau và cùng một dung lượng free 2GB. Điểm khác là Ubuntu chỉ chạy được trên Ubuntu 9.10, Dropbox chạy được trên mọi hệ Linux, Windows và Mac. Dropbox đã trình bày ở đây, khi cài nên chọn đưa thư mục Dropbox vào Home/DATA/My Documents để dùng chung với Windows và các hệ Linux khác trên cùng ổ cứng.


h- Firefox: cài thêm một số extension sau:





  • Xmarks hoặc Weave Sync: hai extension này làm việc giống như Dropbox, nhưng đối tượng lưu và đồng bộ của chúng là bookmarks, password, hystory, preferences (Xmarks chỉ đồng bộ bookmarks và password). Với các extension này, dù cài đi cài lại Linux hoặc trên nhiều máy thì các dữ liệu trên vẫn giống nhau. Weave nhiều tính năng hơn nhưng hiện tại có vẻ không tốt bằng Xmarks.




  • DownThemAll : trình quản lý, tăng tốc download dưới dạng extension. Tôi dùng trình này nhiều và thấy không cần cài hoặc dùng các trình ngoài như Kget, …




  • Tab Mix Plus : quản lý các tab; nhấn vào link, bookmark tự động mở tab mới.




  • Zoho Notebook Helper : sau khi Google Notebook ngừng phát triển thì Zoho Notebook thay thế. Extension này cho phép rê chuột bôi đen một đoạn quan tâm trên trang web rồi add nó vào Zoho Notebook kèm theo cả link. Như vậy hay hơn là bookmarks.




  • VnDict : dùng tra từ điển Anh Việt khi đọc web.




  • Email This! : bôi đen một đoạn văn bản rồi gửi mail (kèm cả link). Có thể dùng cái này để ghi nhớ các đoạn văn bản quan tâm trên web thay cho Zoho Notebook Helper bằng cách gửi mail cho chính mình.




5- Thay đổi hình thức màn hình


Nhấn vào System > Preferences > Appearance. Trong màn hình Appearance Preferences, nhấn vào tab Fonts, đổi các font màn hình từ Sans sang Free Sans, cỡ font tăng lên 12. Với tôi, font Free Sans đẹp và rõ hơn Sans.


Trang trí màn hình theo hướng dẫn ở đây.


Thay theme mặc định bằng theme khác theo hướng dẫn ở đây.


Tự động thay wallpaper theo hướng dẫn ở đây.


6- Cài thêm Desktop Environment


Môi trường đồ họa (Desktop Environment) mặc định của Ubuntu là Gnome. Mở Synaptic, cài thêm hai môi trường khác là KDE và Xfce (kèm theo cả một số ứng dụng cơ bản như email, trình duyệt file, v.v..) từ hai gói: kubuntu-desktop xubuntu-desktop.


Để làm việc bình thường có thể dùng KDE hoặc Gnome tùy thói quen và sở thích. Khi cần nhanh thì log in vào Xfce. Cách log in và chọn môi trường đồ họa hơi khác các bản Ubuntu cũ: trước tiên phải nhập username và password, khi đó ở đáy màn hình xuất hiện một panel, trong đó có mục cho chọn Gnome, KDE hay Xfce.


Xem tiếp tại đây.


Còn một số thứ khác, tham khảo thêm ở đây.


















10/30/09

Bộ Quốc phòng Mỹ đẩy mạnh việc dùng phần mềm nguồn mở


BỘ QUỐC PHÒNG MỸ ĐẨY MẠNH VIỆC DÙNG PHẦN MỀM NGUỒN MỞ.


Zxc232 tổng hợp từ Internet


Ngày 16/10/2009, bộ Quốc phòng Mỹ (DoD) phát hành công văn (official memo) “Giải thích làm rõ về Phần mềm Nguồn mở” . Với văn bản này, phần mềm nguồn mở có đủ điều kiện thực tế để được xem xét, mua sắm và sử dụng trong quân đội Mỹ bình đẳng như các phần mềm thương mại nguồn đóng khác.


Năm 2003, bộ QP Mỹ đã có một công văn về “ Phần mềm Nguồn mở trong bộ Quốc phòng” hướng dẫn việc mua sắm, sử dụng và phát triển PMNM trong bộ. Tuy nhiên, như công văn mới nhận xét “ còn có những nhận thức sai, hiểu sai các luật lệ, chính sách, quy chế hiện hành về phần mềm và việc áp dụng vào PMNM do đó cản trở việc sử dụng và phát triển PMNM trong bộ”. Và công văn này sẽ giải thích rõ, chấm dứt các cản trở đó, như vậy PMNM mới có đủ điều kiện thực tế bước chân vào bộ QP. Từ nay trong quân đội Mỹ, PMNM phải được xem xét bình đẳng như các phần mềm nguồn đóng khác trong các vụ mua sắm, trang bị, xây dựng phần mềm.


Điều này cũng giống như Việt nam, thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành không luật lệ nào áp dụng vào thực tế được.


Một trong những điểm quan trọng là đánh giá về vai trò của PMNM trong bộ QP, công văn viết:” Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình, bộ QP phải phát triển và cập nhật khả năng phần mềm nhanh hơn bao giờ hết, dự kiến được các nguy cơ mới và đáp ứng được với các yêu cầu thay đổi liên tục. Việc sử dụng PMNM có thể tạo thuận lợi cho các vấn đề đó - To effectively achieve its missions, the Department of Defense must develop and update its software-based capabilities faster than ever, to anticipate new threats and respond to continuously changing requirements. The use of Open Source Software (OSS) can provide advantages in this regard...”


Điểm (b) trong section 2, phụ lục 2 của công văn phân tích rõ các ưu điểm đã nói ở trên.


Hiện nay, mặc dù còn những cản trở nói trên, bộ QP Mỹ đang dùng khá nhiều PMNM và cũng nguồn mở hóa hơn 1 triệu dòng lệnh phần mềm của mình cho công chúng (xem thêm tại đây , tại đâytại đây). Giám đốc một công ty tư vấn về PMNM cho chính phủ Mỹ đánh giá rằng khoảng từ 1/3 đến một nửa phần mềm của bộ QP hiện nay là PMNM.


Việc quân đội Mỹ tích cực dùng PMNM như vậy chứng minh rằng về tính năng và bảo mật, PMNM có thể áp dụng trong bất cứ lĩnh vực nào.


Không hiểu điều này đã đủ để thuyết phục các cấp lãnh đạo của Việt nam chưa?







10/29/09

Lỗi “UNEXPECTED INCONSISTENCY; RUN fsck MANUALLY”


LỖI “UNEXPECTED INCONSISTENCY; RUN fsck MANUALLY”


Trong quá trình khởi động Linux, màn hình đang ở chế độ đồ họa chuyển sang chế độ text đen trắng và có thông báo lỗi như thế này:


/dev/sda4: UNEXPECTED INCONSISTENCY; RUN fsck MANUALLY
(i.e., withou -a or -p options)


(/dev/sda4 có thể thay đổi tùy từng máy: /dev/sda2, /dev/hda5, v.v...).


Thông báo trên có nghĩa là “Hệ thống file trên partition /dev/sda4 có lỗi không tương thích; chạy lệnh fsck bằng tay để chữa”.


Lỗi không tương thích của hệ thống file thường là do máy bị shutdown không sạch (unclean - do tắt điện bất thình lình, do máy bị treo rồi tắt điện cưỡng bức) hoặc do ổ cứng có bad block.


Khi đó, dữ liệu file lưu khác với dữ liệu trong nhật ký, và như thế là lỗi (xem thêm về hệ thống file nhật ký tại đây). Khi khởi động, Linux tự phát hiện ra lỗi đó và cho chạy fsck để tự chữa lỗi. Chỉ khi nào không chữa được mới có thông báo trên yêu cầu người dùng chạy fsck bằng tay.


Cần nhớ: để an toàn, chỉ được dùng fsck kiểm tra các partition không mount.


Có hai trường hợp xảy ra tiếp theo:


a/ Nếu partition sda4 đang cài Linux (mount vào thư mục gốc /) thì lỗi nằm ở các file hệ thống và Linux sẽ ngừng khởi động chở xử lý.


b/Nếu partition sda4 không mount vào thư mục gốc, mà chỉ là partition phụ để chứa dữ liệu (như ổ D trong Windows) thì Linux vẫn khởi động tiếp nhưng partition đó không được mount.


Nếu là trường hợp b/ thì cách chữa đơn giản hơn:


1- Mở kiểm tra thư mục dùng mount sda4 (ví dụ /mnt/data, …) để chắc chắn là đã không mount: trong thư mục đó không có dữ liệu chứa trên sda4.


2- Mở terminal và chạy các lệnh sau:


sudo fsck -c /dev/sda4 (với Ubuntu)


hoặc với Mandriva chạy hai lệnh:


su (để chuyển sang root)


fsck -c /dev/sda4


Option -c để chương trình kiểm tra và đánh dấu các bad block nếu có.


Nếu trên máy có cài Gparted có thể dùng Gparted để kiểm tra như đã nói ở đây. mà không dùng lệnh. Tuy nhiên, không rõ lệnh check của Gparted có kiểm tra và đánh dấu các bad block không?


Nếu là trường hợp a/ thì an toàn nhất là khởi động lại máy từ một đĩa Linux LiveCD (đĩa nào cũng được, không nhất thiết phải trùng với bộ Linux đã cài trên ổ cứng). Khi khởi động như vậy, các partition đều không được mount. Khi đã vào chế độ LiveCD, mở terminal hoặc chạy Gparted để kiểm tra giống như trên.


Ngoài các bộ Linux thông thường, có hai bộ Linux chuyên dùng để sửa chữa là SystemRescueCDGpartedLive. có thể tải về ghi thành đĩa Live CD hoặc ổ Live USB. Khi cần boot máy từ đó để sửa. SystemRescueCD nhiều công cụ hơn, GpartedLive chỉ có Gparted nên dung lượng chỉ có 100MB.







10/28/09

Làm cho Linux nhanh hơn, nhẹ hơn và mạnh hơn


Làm cho Linux nhanh hơn, nhẹ hơn và mạnh hơn


(Tối ưu hóa quá trình boot, KDE, GNOME, kết nối mạng và nhiều thứ khác)


By Bob Moss   8/10/2009 at 14:15 BST                                                              ZXC232 lược dịch và bổ xung


( Một số chiêu thức dưới đây, nếu công lực chưa đủ thì đừng nên thực hiện. Một số trường hợp cách làm có thể khác nhau trên các bản Linux khác nhau, tác giả viết trên cơ sở openSUSE)

1- CHO LINUX KHỞI ĐỘNG NHANH HƠN.


Bỏ thời gian timeout:


Dùng quyền root mở file /boot/grub/menu.lst trong một trình soạn text và tìm dòng sau đây (thường ở ngay đầu file):

timeout=3

Đây là thời gian chờ để các phần cứng cũ có thể tải các module driver. Đổi timeout=0 sẽ khởi động nhanh hơn được 3 giây.

CHÚ Ý: điều nói trên chỉ đúng nếu trên ổ cứng chỉ cài một hệ điều hành duy nhất là Linux. Khi có từ hai hệ trở lên, thường timeout=10 (giây) là thời gian boot menu chờ người dùng chọn khởi động hệ điều hành nào. Nếu không chọn, hệ điều hành default sẽ được khởi động. Đặt timeout=0 sẽ làm cho bootmenu không xuất hiện nữa, sẽ không chọn khởi động được các hệ điều hành khác).

Tăng tốc ổ cứng.


Nếu ổ cứng có tính năng DMA (Direct Memory Access), có thể tăng tốc đọc dữ liệu bằng lệnh hdparm chạy trong terminal như sau (với quyền root):

hdparm -d1 /dev/hda1

trong đó /dev/hda1 là boot partition của bản Linux đang xét. Tùy máy và cách cài, có thể là hda2, sda5, ...

Trong Gnome có thể cho chạy tự động lệnh này tại System > Administration > Services. Thêm dòng lệnh trên với gksudo ở đầu.

Chi tiết hơn về lệnh này xem tại đây.

Chạy song song các tiến trình khi boot


Dùng quyền root mở file /etc/init.d/rc trong một trình soạn text (gedit hoặc kwrite) rồi tìm dòng sau:

CONCURRENCY=none

Thay none bằng shell, thời gian boot có thể giảm được 1-2 giây.

Tối ưu hóa bộ nhớ


Một cách tốt để tăng tốc Linux là quy định việc sử dụng swap. Swap partition là nơi Linux dùng làm bộ nhớ ảo, lưu các dữ liệu tạm để có thể nạp nhanh vào RAM khi cần. Nếu RAM đủ lớn ( 1GB) thì nên giảm việc dùng swap và tốc độ sẽ tăng đáng kể.

Cách thay đổi mức độ swap xem tại đây.

CHÚ Ý: các cách tăng tốc boot nói trên có lẽ chỉ đúng cho các bản Linux cũ. Các phiên bản Linux gần đây đều cố gắng giảm thời gian boot xuống dưới 10 giây nên các cách trên không giúp được nhiều.

2- GNOME


Dùng preload


Preload là một trình thường trú (daemon) theo dõi các hoạt động hàng ngày để lúc khởi động tải trước các chương trình, file thường dùng nhằm tăng tốc hệ thống.

Trước hết kiểm tra trong danh sách các processes xem preload đã chạy chưa. Nếu không thấy, kiểm tra xem đã cài chưa (Ubuntu thường chưa cài), rồi kích hoạt bằng lệnh:

service preload on

Automatic login


Máy dùng chung thì không nên kích hoạt tính năng này. Nhưng máy cá nhân và không sợ người khác tò mò thì Automatic login đỡ mất thời gian chờ gõ username và password.

Chọn lần lượt System > Administration > Login Window > Security > Enable Automatic Login.

Dùng khung cửa sổ thay cho ảnh cửa sổ


Khi nhấn chuột vào thanh tiêu đề rồi rê một cửa sổ (window) từ chỗ này sang chỗ khác, trong quá trình rê, toàn bộ ảnh cửa sổ vẫn giữ nguyên. Để đỡ cho Gnome khỏi phải làm việc đó (tốc độ sẽ giảm), mở terminal gõ vào lệnh sau:

gconftool-2 --type bool --set /apps/metacity/general/ reduced_resources true

Bây giờ khi rê cửa sổ sẽ chỉ có hình khung rê theo. Chú ý thủ thuật này chỉ có tác dụng nếu không dùng Compiz hoặc các hiệu ứng màn hình.

Làm menu hiện nhanh hơn.


Khi mở các menu Gnome lần đầu, các ảnh của icon được tải từ file nguồn, menu có thể không xuất hiện ngay. Nếu máy đủ mạnh, mở thư mục Home, tạo một file ẩn mới .gtkrc-2.0 (chú ý đầu tên file ẩn có dấu chấm). Sau đó mở file nói trên bằng trình soạn text (gedit) rồi thêm dòng sau:

gtk-menu-popup-delay=0

Save rồi đóng file lại. Log out ra rồi log in lại, menu sẽ xuất hiện nhanh hơn.

3- KDE


Tăng tốc ext3


Có thể tăng tốc đáng kể bằng cách dùng kiểu ghi ổ cứng write-back của hệ thống file ext3. ( ext3 có ba kiểu ghi dữ liệu lên ổ cứng, xem tại đây). Thủ thuật này không chỉ áp dụng cho KDE, mà dùng được cho hầu hết các bản Linux hiện nay không dùng kiểu ghi này ( kiểu ghi mặc định của ext3 là ordered).

Nguyên nhân chính là do các ổ cứng kiểu cũ không hỗ trợ kiểu ghi này. Hiệu quả không rõ lắm trên một máy dùng ở nhà, nhưng sẽ thấy rõ trong những máy ghi ổ cứng nhiều, ví dụ các máy chủ. ( Lưu ý: được cái nọ thì mất cái kia, write-back ghi nhanh nhất nhưng có thể mất dữ liệu, data chậm nhất nhưng an toàn nhất)

Backup file /etc/fstab rồi dùng quyền root mở nó trong một trình soạn text và tìm đoạn sau:

relatime,errors=remount-ro

thay nó bằng đoạn này:

noatime,nodiratime,errors=remount-ro,data=writeback

Dùng quyền root mở file /boot/grub/menu.lst trong một trình soạn text rồi tìm các dòng sau:

# defoptions quiet splash
#altoptions=(recoverymode) single

Thêm đoạn dưới đây vào cuối hai dòng đó:

rootflags=data=writeback

Save file và đóng lại. Mở terminal chạy lệnh update grub.

Tắt IPv6


Hiện IPv6 chưa phổ biến, trình duyệt web Konqueror phải chuyển đổi giữa IPv4 và Ipv6. Có thể tắt IPv6 đi. Cách làm tùy từng bản Linux.

Trong Kubuntu, dùng quyền root mở file /etc/environment và thêm dòng sau:

KDE_NO_IPV6=True

Trong openSUSE, dùng quyền root mở file /etc/sysconfig/windowmanager tìm dòng sau:

KDE_USE_IPV6="yes"

thay yes bằng no.

Automatic login


Vào System Settings, nhấn Advanced tab, nhấn tiếp vào Login Manager > Convenience rồi kích hoạt Auto Login.

Bắt đầu một phiên làm việc trống (empty session)


Khi kết thúc một phiên làm việc (log out hoặc shutdown, restart), KDE4 ghi lại trạng thái phiên đó (các cửa sổ đang mở, các tiến trình đang chạy, …) và trong phiên tới, nó mở lại đúng phiên cũ.

Nếu không cần điều đó, hãy mở System Settings > Advanced > Session Manager, chọn mục Start with an empty session rồi nhấn nút Apply.

4- NETWORK


Dùng hostname là 'localhost'


Dùng quyền root mở file /etc/hosts trong một trình soạn text và thay hai dòng đầu thành như sau:

127.0.0.1 localhost
yourhost 127.0.1.1 yourhost

trong đó yourhost là tên đặt cho máy (ví dụ: zxcdesktop). Nhớ sao lưu file /etc/hosts trước khi sửa vì không phải bản Linux nào cũng tương thích với cách làm trên!

Tối ưu hóa các thiết lập của TCP


Dùng quyền root, mở file /etc/sysctl.conf trong một trình soạn text và thêm các dòng sau:

net.ipv4.tcp_timestamps = 0
net.ipv4.tcp_sack = 1

Dòng đầu bỏ các dữ liệu thời gian, bớt được 12k cho mỗi gói tin. Dòng thứ hai kích hoạt việc xác nhận chọn lọc, bớt được các công đoạn kiểm tra mỗi gói tin do đó lưu thông sẽ nhanh hơn.

Metrics và backlogs


Có thể tiếp tục tối ưu hóa TCP bằng cách thêm hai dòng sau vào file nói trên:

net.ipv4.tcp_no_metrics_save = 1
net.core.netdev_max_backlog = 2500

Dòng trên tăng tốc kết nối bằng cách tránh không save TCP metric cho từng gói tin. Dòng thứ hai quy định kích thước backlog cho phép.

Với kết nối không dây hoặc Ethernet cũ, backlog khoảng 2000, kết nối cáp 1GB backlog khoảng 5000.

TCP window scaling


Thiết lập này của TCP quy định kích thước gói tin tối thiểu và tối đa có thể gửi và nhận. Kết nối dial-up sẽ nhanh hơn khi kích thước gói nhỏ hơn, ngược lại kết nối băng rộng sẽ nhanh khi kích thước gói tin lớn.

Dùng quyền root mở file /etc/sysctl.conf và thêm vào đó:

net.ipv4.tcp_window_scaling = 1
net.ipv4.tcp_wmem = 10240 87380 16777216
net.ipv4.tcp_rmem = 10240 87380 16777216
net.ipv4.tcp_mem = 16777216 16777216 16777216
net.core.rmem_max = 16777216
net.core wmem_max = 16777216

Các số trên tối ưu cho kết nối 2Mbps, nói chung kích thước gói tối ưu tính bằng cách lấy băng thông lớn nhất (maximum bandwidth) chia cho độ trễ (latency). Hai số đó có thể xác định từ www.speedtest.net và kết quả thay đổi thế nào xác định theo www.speedguide.net:8080

( Trong Network Center của Mandriva có mục Advanced Settings cho phép disable Ipv6, TCP Windows Scanling và TCP Timestamps)

5- FIREFOX


Tắt IPv6


Gõ vào thanh địa chỉ: about:config rồi Enter. Xuất hiện màn hình cảnh báo, nhấn tiếp vào nút I'll be carefull.

Trong màn hình mới, gõ vào ô Filter dòng sau:

network.dns.disableIPv6

Chỉ cần gõ vài từ đầu là thông số trên đã hiện lên ở dưới. Kích đúp chuột vào đó để đổi mục Value từ “False” thành “True”. Đóng màn hình config lại.

Hiển thị trang web nhanh hơn


Trong màn hình about:config, nhấn phím phải chuột, chọn New > Interger. Trong màn hình con xuất hiện gõ vào content.notify.backoffcount rồi OK. Trong màn hình con tiếp theo nhập vào số 5 rồi OK. Thiết lập này bảo Firefox không cần chờ cả trang web tải về mới hiển thị.

Tương tự như trên, tạo thông số nglayout.initialpaint.delay rồi gán giá trị bằng 0 (số không). Thông số này quy định Firefox không cần chờ toàn bộ thông tin kết cấu trang tải về xong mới hiển thị trang.

Tối ưu hóa lịch sử duyệt web.

Nếu giảm khối lượng lịch sử duyệt web mà Firefox phải lưu thì nó sẽ xuất hiện nhanh hơn và tiết kiệm ổ cứng. Trong màn hình about:config, gõ vào ô Filter:

browser.history

rồi nhấn đúp chuột vào các thông số browser.history_expires_daysbrowser.history_expires_days_min đổi chúng về giá trị nhỏ hơn.

Tiếp tục chỉnh các thiết lập của TCP


Vẫn trong màn hình about:config , chỉnh các thông số network.http.pipeliningnetwork.http.proxy.pipelining từ “False” thành "True". Đổi giá trị của network. http.pipelining.maxrequests từ 4. thành 8.

(Firefox 3.5 đã đặt sẵn các thông số này giống như trên)

Hiển thị menu nhanh hơn


Trong màn hình about:config, nhấn phím phải chuột chọn New > Integer. Nhập tên thông số mới là ui.submenuDelay và đặt giá trị của nó bằng 0 (số không).

Khi khởi động lại Firefox sẽ thấy menu xuất hiện nhanh hơn đáng kể.

6-PHẦN MỀM.


Truy cập các kho phần mềm


Khi cài đặt, Ubuntu mặc định chọn kho phần mềm dành cho Việt nam (Server for Vietnam) nhưng kho đó ở Mỹ và không nhanh. Nhấn vào Other > Select Best Server, chương trình sẽ test khoảng 300 máy chủ trên toàn thế giới để chọn máy nhanh nhất. Tuy nhiên có điều lạ là mặc dù máy chủ của FPT được đăng ký chính thức trong danh sách đó nhưng thường không được chọn theo cách test trên. Thực tế sử dụng thì kho của FPT là nhanh nhất. Vì vậy không cần test, cuốn danh sách xuống dưới cùng đến mục Vietnam để chọn kho mirror-fpt-telecom.fpt.net.

Mandriva từ bản 2009 không cho chọn kho phần mềm riêng biệt mà theo một mirror list chung. Về nguyên tắc khi download, chương trình sẽ tự chọn kho nhanh nhất. Tuy nhiên, nếu đang download mà kho đó treo phải tắt chương trình cài phần mềm Software Management rồi bật lại để chương trình chọn sang kho khác.

Mandriva có cái dở là thông tin mô tả phần mềm khi cần mới tải về và quá trình tải cũng lâu. Vì vậy tốt nhất là tắt tính năng đó đi ( Control Center > Install & Remove Software > Options > Media Manager > Options > Global Options rồi chọn XML meta-data download policy là never).

Mandriva cho chọn ba chương trình download khác nhau. Vì vậy khi trục trặc có thể chuyển sang chọn chương trình khác, về nguyên tắc aria2 là hay nhất. Thực tế sử dụng thì aria2 chập chờn, lúc rất tốt, lúc lại tịt. Khi đó phải chọn chương trình download khác (curl hoặc wget) cũng ở cùng màn hình Global Options như trên.

Dọn phần mềm thừa


Khi tải phần mềm về cài, Ubuntu lưu các gói cài đặt trong thư mục /var/cache/apt. Khi cài xong, để xóa các gói lưu đó, mở terminal chạy lệnh:

sudo apt-get clean

Xóa các file “mồ côi” bằng lệnh:

sudo apt-get autoremove

Mandriva khi cài xong tự xóa cache. Thỉnh thoảng xóa file “mồ côi” bằng các lệnh:

su

urpme –auto-orphans

OpenOffice.org chạy nhanh hơn


Trong màn hình OpenOffice.org, nhấn vào Tools > Options > Memory:




  • Giảm số bước undo (Number of steps) xuống khoảng 20.

  • Tăng lượng lượng cache dành cho các đối tượng đồ họa trong file (Graphic cache) lên khoảng 128MB (hoặc hơn tùy theo RAM của máy).

  • Đánh dấu chọn mục Enable systray Quickstarter để khởi động trước một phần OpenOffice khi khởi động máy (sẽ xuất hiện một icon trên System Tray).

  • Trong mục Java ở cột bên trái, bỏ chọn mục Use a Java runtime environment (nếu không dùng các tính năng cao cấp của OpenOffice).


7- DÙNG MỘT “BỘ ÁO” NHẸ HƠN.


Ngoài các môi trường đồ họa có sẵn khi cài đặt (KDE hoặc GNOME), Linux còn nhiều “bộ áo” khác (xem thêm ở đây).

Nếu cần nhanh, có thể sắm thêm một bộ áo thể thao, xfce chẳng hạn, để dùng khi cần. Khi không cần lại khoác áo dạ hội KDE4 hoặc áo đi làm GNOME.

Trong Ubuntu, Kubuntu, cài thêm gói phần mềm xubuntu-desktop.(có trong kho phần mềm).

Trong Mandriva, vào Menu > Install & Remove Software:


Ở ô trên cùng chọn Meta packages như trong hình trên. Chọn tiếp mục Xfce ở cột bên trái rồi chọn cài task-xfce-minimal ở cột bên phải.


Trong màn hình Login của Ubuntu, Kubuntu từ 9.04 về trước, chọn Options > Sessions rồi chọn Xfce. Ubuntu, Kubuntu 9.10: nhập username, password rồi chọn Xfce ở đáy màn hình.

Trong màn hình Login của Mandriva, nhấn vào biểu tượng quyển sổ+bút chì để chọn Xfce.