Showing posts with label thủ thuật. Show all posts
Showing posts with label thủ thuật. Show all posts

3/8/10

Dọn dẹp Ubuntu (và các bản Linux khác)


Dọn dẹp Ubuntu (và các bản Linux khác)


(Dưới đây lấy ví dụ cho Ubuntu và cũng có  thể áp dụng cho các bản Linux khác)


Sau một hồi cài thêm, gỡ bỏ, cập nhật phần mềm và cả trong quá trình sử dụng bình thường, trong Ubuntu xuất hiện nhiều rác.



I. Bleachbit


Bleachbit là một chương trình dọn dẹp được khá nhiều loại rác. Sau khi cài đặt từ kho phần mềm của Ubuntu, nó xuất hiện trong menu Applications → System Tools dưới hai tên: Bleachbit và Bleachbit (as root).


Nếu chạy Bleachbit theo quyền của một user thường, sẽ chỉ xóa được những dữ liệu cá nhân của user đó: các dữ liệu của Firefox, OpenOffice, GIMP, Flash, Adobe Reader,.... Một số mục trong phần System nhưng nằm ở thư mục Home của user cũng xóa được.


Đặc biệt trong phần Firefox có mục Vacuum dùng để giảm phân mảnh cơ sở dữ liệu của Firefox, làm cho trình duyệt chạy nhanh hơn sau một thời gian sử dụng. Firefox có đến 10 cơ sở dữ liệu SQLite chứa các loại dữ liệu khác nhau. Ngoài cách dùng Bleachbit, còn có thể dùng add-ons SpeedyFox để dọn (xem thêm tại đây).


Để dọn các phần thuộc về hệ thống, phải chạy Bleachbit (as root). Sau khi nhập password, màn hình Bleachbit cũng tương tự như trên (không có các mục liên quan đến user như Firefox, OpenOffice, KDE, ...), trong đó:


APT: gồm các mục con:





  • clean để xóa tất cả các file cài đặt, cập nhật đã tải về từ Internet còn lưu trong thư mục /var/cache/apt/archives. Lệnh thực hiện là sudo apt-get clean. Những file này khá lớn, giải phóng được nhiều dung lượng ổ cứng.




  • autoremove để xóa các file “mồ côi – orphan” không có phần mềm nào cần đến nó. Lệnh thực hiện là sudo apt-get autoremove.




  • Autoclean: như clean nhưng chỉ xóa những file có version cũ, để lại file mới nhất.




System: có mấy mục đáng chú ý:





  • Cache: xóa dữ liệu trong thư mục ẩn /root/.cache




  • Broken desktop files: xóa các menu của các chương trình đã xóa và liên kết đến các loại file của chương trình đó.




  • Free disk space: ghi đè dữ liệu rỗng lên vùng các file đã xóa.




  • Localizations: xóa tất cả các loại file ngôn ngữ không cần thiết, chỉ để lại các file ngôn ngữ đã chọn trong Edit → Preferences → Languages.




  • Temporary Files: các file tạm lưu trong /tmp.




Sau khi đánh dấu chọn các mục cần thiết, nhấn nút Preview để xem trước danh sách các file sẽ xóa (xem hình trên) rồi nhấn nút Delete để xóa.


Bleachbit dùng được cả cho Windows, Mandriva, Fedora, OpenSUSE, ..., tải về tại đây.



II. Wajig


Wajig là chương trình không chỉ để dọn dẹp các file thừa khi cài đặt, gỡ bỏ mà còn để cài đặt, chữa lỗi cài đặt, cập nhật, xem danh sách file, v.v... khá nhiều việc xung quanh việc cài và gỡ phần mềm.


Wajig có trong kho phần mềm của Ubuntu. Sau khi cài, nhấn Alt+F2 rồi chạy lệnh gjig. Màn hình như sau:



Mỗi nút trên màn hình ứng với một lệnh, khi nhấn sẽ có một cửa sổ terminal hiện lên thực hiện lệnh đó. Di con trỏ vào từng nút sẽ có mô tả lệnh xuất hiện.



III. Gỡ bỏ các Linux kernel cũ


Ubuntu 9.10 khi mới cài có nhân Linux version 2.6.31-14, trên boot menu dòng lệnh tương ứng là Ubuntu, Linux 2.6.31-14 generic.


Sau nhiều lần cập nhật, cho đến nay phiên bản nhân là 2.6.31-20, mỗi lần cập nhật, nhân cũ không bị xóa, vẫn có một giòng lệnh trên boot menu. Nếu nhân mới có gì trục trặc, vẫn có thể chọn khởi động vào một trong các nhân cũ đã hoạt động tốt.


Nếu phiên bản nhân mới nhất hoạt động tốt trên máy của bạn, có thể xóa các nhân cũ đi như sau:





  • Vào menu System → Adminstration → Synaptic Package Manager




  • Trong màn hình của Synaptic, gõ vào ô Quick Search từ “kernel”, nhấn tiếp vào từ Package ở cột Package để xếp thứ tự gói theo abc rồi tìm và đánh dấu Mark for Complete removal tất cả các gói linux-headers-2.6.31.x, linux-headers-2.6.31.x-generic, linux-image-2.6.31-x, linux-image-2.6.31-x-generic với x=14-19 đã cài, chỉ để lại các gói mới nhất 2.6.31-20. Gỡ bỏ các gói này giải phóng được khoảng 600-900MB ổ cứng.




  • Sau đó khởi động lại, trên boot menu sẽ chỉ còn hai hàng ứng với phiên bản nhân mới nhất.




11/20/09

Vài thủ thuật OpenOffice Writer


Vài thủ thuật cho OpenOffice Writer.









I- Tiêu đề (Heading)


Heading là các tiêu đề phân theo từng cấp và được đánh số tự động. Ví dụ:


Chương I: Tiêu đề cấp 1


I.1 Tiêu đề cấp 2


I.1.1 Tiêu đề cấp 3


Heading là công cụ rất tiện khi viết và đọc các văn bản dài có cấu trúc.



I.1-Tạo Heading:


Heading đã có sẵn trong danh sách các Style trên Format Toolbar:


Định đặt dòng nào làm Heading thì trước hoặc sau khi gõ xong, để con trỏ chuột ở dòng đó (không cần bôi đen cả dòng) rồi nhấn vào mũi tên trỏ xuống ở ô Style hình trên (bên trái ô Font), chọn Heading trong danh sách xổ xuống.


Heading có sẵn không đánh số ở đầu như trong ví dụ trên. Muốn đánh số tự động, nhấn vào menu Tools > Outline Numbering, màn hình sau xuất hiện:


Trong màn hình trên, chọn từng cấp Heading rồi chọn Number ở dưới. Mục Separator để chọn ký tự phân cách số và text của Heading. Trong ví dụ trên, trước số là từ “Chương”, sau số của Heading 1 là dấu hai chấm và dấu cách như hiển thị trong cột bên phải.


Số đã chọn ở trên sẽ được đánh tự động, người dùng không phải gõ. Khi xóa một heading hoặc di chuyển nó sang vị trí khác, số cũng tự động thay đổi.


Để định dạng Heading theo ý muốn, nhấn vào menu Format > Styles and Formatting. Trong màn hình tiếp, nhấn phím phải chuột vào Heading muốn định dạng lại. Màn hình sau xuất hiện:



Trong màn hình trên có thể thay đổi rất nhiều thứ theo ý muốn.



I.2-Nâng cấp, hạ cấp, di chuyển Heading


Khi con trỏ ở trong vùng một heading nào đó, toolbar sau xuất hiện:


Nhóm bốn nút có mũi tên chỉ sang trái, phải dùng để nâng hoặc hạ cấp heading (ví dụ từ heading 1 xuống heading 2). Nếu một heading định nâng/hạ cấp có các heading cấp thấp hơn ở bên dưới thì dùng nút có hai mũi tên. Khi đó, ví dụ heading 1 xuống thành heading 2 và các heading 2, 3 bên dưới nó sẽ xuống thành heading 3,4.


Nhóm bốn nút có mũi tên chỉ lên, xuống cho phép di chuyển một heading và tất cả phần văn bản bên dưới nó đến vị trí khác. Chỉ cần nhấn chuột vào heading (không cần bôi đen) rồi nhấn nút thích hợp.



I.3-Đọc, di chuyển trong văn bản theo heading:


Khi văn bản đã có heading, nhấn vào menu View > Navigator, cửa sổ sau xuất hiện:


Nhấn chuột vào mép trên cửa sổ, rê nó xuống dưới ô Style đến khi thấy xuất hiện một vạch đen thẳng đứng thì nhả chuột ra. Cửa sổ Navigator sẽ có vị trí mới ở bên trái màn hình. Nhấn vào các dấu + bên trái Heading sẽ thấy như sau:


Muốn di chuyển đến tiêu đề nào thì nhấn chuột vào nó ở cột bên trái. Bật tắt cửa sổ Navigator này bằng nút trên toolbar.



II-Tạo mục lục tự động.


Khi đã thiết lập các tiêu đề bằng Heading như trên thì có thể tạo mục lục tự động. Để con trỏ chuột vào vị trí định tạo mục lục rồi nhấn menu Insert > Index and Tables > Index and Tables. Màn hình sau xuất hiện:


Trong màn hình trên:





  • Title: gõ vào từ “Mục lục” thay cho “Table of Contents”.




  • Type: chọn Table of Contents như hình trên.




  • Protected … được đánh dấu chọn sẵn để không cho thay đổi mục lục bằng tay.




  • Evaluate up to level: mặc định mục lục được lập chi tiết đến heading 10 (nếu có).




  • Outline: đã chọn sẵn, quy định mục lục sẽ lập dựa vào heading.




  • Tab Styles: định dạng cho mục lục. Mỗi cấp mục lục (level) ứng với một style là Contents 1, 2, 3,... Muốn thay đổi Style nào nhấn vào đó rồi nhấn nút Edit ở bên dưới.




Sau khi nhấn OK, mục lục sẽ xuất hiện như thế này:





Mục lục




I- Tiêu đề (Heading) ..........................................1


I.1-Tạo Heading: ...........................................1


I.2-Nâng cấp, hạ cấp, di chuyển Heading.......... 3


I.3-Đọc, di chuyển trong văn bản theo heading: ..3


II-Tạo mục lục tự động. ......................................4


III-Bản mẫu (Template) .......................................5


IV- Bổ xung tính năng (Extensions) .......................8




Sau khi đã tạo mục lục, nếu thay đổi các heading (sửa nội dung, chuyển chỗ, xóa hoặc thêm heading, …) mục lục sẽ tự động cập nhật các thay đổi đó khi đóng rồi mở lại file văn bản. Cũng có thể cập nhật mục lục bằng cách nhấn phím phải chuột vào vùng mục lục rồi chọn Update Index/Table.



III-Bản mẫu (Template)


Để soạn một văn bản:





  • Nhanh




  • Thống nhất như nhau cho cùng một loại văn bản




nên dùng các template. Ví dụ tạo một template thông dụng như sau:


Trong màn hình Writer, mở một văn bản mới chưa có tên. Nhấn vào menu Format > Page, rồi chuyển đến tab Page trong màn hình sau:






  • Format: chọn khổ giấy là A4




  • Margins: chọn kích thước các lề giấy theo nhu cầu.




  • Chuyển sang các tab khác (Background, Header, …) để thiết lập nếu cần. Làm xong nhấn OK đóng màn hình lại.




Nhấn tiếp vào menu Format > Styles and Formatting. Trong màn hình Styles, nhấn phím phải chuột vào Default, chọn Modify rồi quy định kiểu font, cỡ font, màu font, khoảng cách dòng, ... mặc định (ví dụ Times New Roman, cỡ 14,..). Các thiết lập ở đây sẽ áp dụng cho những đoạn văn bản bình thường.


Nhấn tiếp phím phải chuột vào các style khác như Heading 1, … rồi thiết lập các mục tương tự như trên theo ý người dùng.


Nhấn tiếp vào menu Tools > Outline Numbering rồi quy định kiểu đánh số các heading như đã nói ở phần trên.


Nhấn vào mũi tên bên phải ô Zoom ( ), chọn Optimal để quy định tỷ lệ phóng to văn bản trên màn hình.


Nhấn vào menu File > Printer Settings để thiết lập các thông số in ấn.


Nhấn chuột vào phần Footer ở cuối trang. Chèn vào đó các mã sau:





  • Gõ từ “Page” (hoặc Trang) rồi nhấn menu Insert > Fields > Page Number để chèn số thứ tự của trang. Gõ tiếp từ “of” (hoặc “của” hay “/”) rồi nhấn Insert > Fields > Page Count để chèn tổng số trang của văn bản.




  • Chuyển con trỏ sang bên trái cụm từ trên, nhấn Insert > Fields > Other. Trong màn hình xuất hiện, ở cột Type chọn File name, cột Format chọn Path/File name để chèn tên file kèm đường dẫn.




Cuối cùng nhấn vào menu File > Save as. Trong màn hình xuất hiện, đặt tên file, ví dụ “Bản mẫu văn bản”, mục File type chọn “ODF Text Document template (.ott)” rồi lưu file Bản mẫu văn bản.ott vào một thư mục nào đó.


Nhấn vào menu File > Template > Organize, màn hình sau xuất hiện:



Nhấn chuột vào My Templates ở cột bên trái, nhấn tiếp vào nút Commands > Import Templates rồi tìm mở file “Bản mẫu văn bản.ott” vừa tạo. Tên file sẽ xuất hiện ở cột trái như hình trên.


Nhấn chuột vào tên file “Bản mẫu văn bản.ott” ở cột trái, nhấn tiếp vào nút Commands > Set as Default Template để quy định bản mẫu đó là mặc định cho các văn bản mới sau này.


Template đã nhập được lưu vào /home/<username>/.ooo3/user/template.


Đóng Writer lại rồi mở ra, văn bản mới Untitled 1 (chưa có tên) sẽ mặc nhiên có tất cả những settings đã thiết lập ở trên cho template, không phải làm lại cho các lần sau.


Ví dụ, sau khi đã lưu file, phần Footer sẽ có dạng như sau:



Writer có rất nhiều template cho đủ loại văn bản, tải tự do từ Internet về dùng và sửa theo ý muốn. Ví dụ xem tại đây.



IV- Bổ xung tính năng (Extensions)


Cũng như Firefox, OpenOffice là phần mềm nguồn mở cho mọi người có thể viết các đoạn chương trình nhỏ bổ xung tính năng theo ý mình (extensions). Một số extensions nên dùng đã giới thiệu ở đâyở đây.



11/18/09

Làm gì sau khi cài Ubuntu 9.10 (tiếp theo)


Vài thủ thuật dùng Ubuntu.


ZXC232 biên soạn, dựa trên bản gốc có link ở trên.



Cài codecs để chạy các file media và hỗ trợ DVD


1- Bổ xung kho phần mềm Mediabuntu.


Medibuntu (Multimedia, Entertainment & Distractions In Ubuntu) là một kho các gói phần mềm không có trong Ubuntu vì các lý do pháp lý (bản quyền, bằng phát minh, giấy phép, …). Bản Ubuntu gốc chỉ gồm các phần mềm tự do (free software).


Danh sách các phần mềm trong Medibuntu xem tại đây.


Mở Terminal, chạy các lệnh sau (copy rồi paste vào terminal) để bổ xung kho Medibuntu vào Ubuntu:


sudo wget http://www.medibuntu.org/sources.list.d/$(lsb_release -cs).list --output-document=/etc/apt/sources.list.d/medibuntu.list &&


sudo apt-get -q update &&


sudo apt-get --yes -q --allow-unauthenticated install medibuntu-keyring &&


sudo apt-get -q update


2- Cài gói non-free-codecs


Sau khi add kho Medibuntu, mở Synaptic và tìm cài gói non-free-codecs. Đây là gói tổng hợp (meta-package) gồm cả ubuntu-restricted-extras và một số thứ khác. Dưới đây là danh sách chi tiết:


cabextract freepats gsfonts-x11 gstreamer0.10-ffmpeg gstreamer0.10-plugins-bad gstreamer0.10-plugins-bad-multiverse gstreamer0.10-plugins-ugly gstreamer0.10-plugins-ugly-multiverse java-common liba52-0.7.4 libamrnb3 libamrwb3 libass3 libavcodec52 libavformat52 libavutil49 libcdaudio1 libcelt0 libdc1394-22 libdca0 libdirac0c2a libdvdnav4 libdvdread4 libenca0 libfaac0 libfaad0 libffado1 libfftw3-3 libfreebob0 libgsm1 libid3tag0 libiptcdata0 libjack0 libkate1 libmad0 libmimic0 libmjpegtools-1.9 libmms0 libmodplug0c2 libmp3lame0 libmp4v2-0 libmpcdec3 libmpeg2-4 libofa0 libpostproc51 libquicktime1 libschroedinger-1.0-0 libsidplay1 libsoundtouch1c2 libswscale0 libtwolame0 libwildmidi0 libx264-67 libxml++2.6-2 libxvidcore4 non-free-codecs odbcinst1debian1 sun-java6-bin sun-java6-jre sun-java6-plugin ttf-liberation ttf-mscorefonts-installer ubuntu-restricted-extras unixodbc unrar w64codecs (Total about 170 MB)


CHÚ Ý: hai mục trên cũng đã có trong perfectbuntu, chỉ thiếu libamrnb3 và libamrwb3. Do đó nếu đã chạy perfectbuntu rồi thì không cần làm như trên nữa.


3-  Thêm một số codecs, DVD và trình mediaplayer VLC và Mplayer


Để chơi DVD mã hóa, phải có libdvdcss2. Trình VLC và Mplayer là hai trong số những trình chơi media tốt nhất hiện nay. Cài bằng Synaptic hoặc bằng dòng lệnh các gói sau:


sudo apt-get install libdvdcss2 gxine libxine1-ffmpeg vlc mplayer mencoder (khoảng 80MB).



Dùng Gnome Control Center


Gnome Control Center tập hợp các mục trong System vào một màn hình. Dùng nó đỡ phải dò tìm trong các menu Preferences và Administration. Mặc định nó bị tắt. Để bật lên, nhấn vào System > Preferences > Main menu. Trong màn hình Main Menu, chọn System ở cột bên trái rồi đánh dấu chọn Control Center ở cột bên phải. Sau đó, Control Center sẽ xuất hiện ở menu System.



Thiết lập profile chung của Firefox và Thunderbird


Mọi thiết lập của Firefox hoặc Thunderbird đều nằm trong một thư mục ẩn. Ví dụ với Firefox là /home//.mozilla/firefox/ckwzugd4.default. (tên của thư mục cuối có thể khác). Trong đó có bookmarks, histories, các extensions, cache, email, v.v... Các nội dung trong các thư mục đó tạo nên profile của Firefox hoặc Thunderbird.


Nếu trên máy cài từ hai hệ điều hành trở lên (Windows, Linux) và đều dùng Firefox, Thunderbird, có thể tạo một profile chung để dù chạy hệ điều hành nào thì Firefox và Thunderbird cũng vẫn giống nhau về mọi thứ. Cách làm như sau:


Mở terminal, chạy lệnh:


firefox   -P     hoặc


thunderbird    -P


Màn hình sau xuất hiện:




Trong lần chạy đầu, chỉ có một profile default trong danh sách. Đó chính là profile mặc định nằm trong thư mục ẩn nói trên.


Nhấn vào Create Profile, tạo một profile khác ở thư mục dùng chung cho các hệ điều hành, My Documents chẳng hạn.


Sau đó, dù đang ở hệ điều hành nào, Firefox cũng dùng một profile chung. Với Thunderbird, trong profile có các thư mục email, nên ở hệ điều hành nào email cũng như nhau.



Quản lý hệ thống


1- StartUp Manager


Chương trình này dùng quản lý, thay đổi màn hình khởi động và boot menu, tìm cài từ Ubuntu Software Center (gõ từ Boot vào ô tìm kiếm). Sau khi cài, chạy từ System > Administration > StartUp-Manager.




2- BootUp-Manager:


Chương trình này cũng tìm cài từ Ubuntu Software Center như trên. Sau khi cài, chạy từ System > Administration > BootUp-Manager.




Trong màn hình trên, các dịch vụ tự động chạy khi boot máy được đánh dấu chọn ở cột Activate. Có thể bỏ bớt một số không cần thiết để tiết kiệm bộ nhớ và giảm tải cho CPU:


Common Interface to speech synthesizers: bộ tổng hợp tiếng nói.


Samba nameservice …. : nếu không nối mạng Windows.


Bluetooth services: nếu không dùng thiết bị bluetooth.


Fast remote file …: nếu không cần đồng bộ file với máy khác.


Scanner services: nếu không dùng scanner.


v.v.....


3-Bỏ khởi động các chương trình không cần thiết


Vào System > Preferences > Startup Applications. Một số chương trình trong đó có thể không cần khởi động (Bluetooth Manager, Visual Assistances,...).


4- Thiết lập tường lửa


Ubuntu có tường lửa (ufw - Uncomplicated Firewall) cài sẵn nhưng không kích hoạt. Mở Ubuntu Software Center, search từ “gufw” rồi cài Firewall Configuration là giao diện của ufw. Chạy từ System > Administration > Firewall Configuration.




Đánh dấu mục Enabled để kích hoạt tường lửa. Nhấn nút Add để lập các quy tắc.


5- Cài chương trình chống virus


Nếu hay giao dịch file với các máy Windows thì nên cài một chương trình antivirus để quét virus hộ các máy đó. Mở Ubuntu Software Center, search từ “virus” rồi chọn cài, ví dụ Virus Scanner. Cài xong chạy từ Applications > System Tools > Virus Scanner.




6- Vài thứ khác:


Nautilus-scripts và Ubuntu Tweak xem ở đây.


7- Gỡ các gói phần mềm mồ côi.


Khi cài một phần mềm mới, các phần mềm phụ thuộc (dependency) cần thiết để chạy phần mềm đó cũng được cài theo. Nhưng khi gỡ bỏ (remove) phần mềm chính, các phần mềm phụ thuộc lại không được gỡ và trở thành phần mềm thừa, “mồ côi”, không liên quan đến phần mềm nào cả.


Dùng lệnh: sudo apt-get autoremove


Hoặc cài phần mềm gtkorphan (từ Synaptic Package Manager).


Trong các bản Ubuntu trước, các phần mềm tải về từ Internet để cài hoặc update được lưu trong thư mục /var/cache/apt. Khi cài xong, các gói cài đặt đó cũng không cần nữa. Xóa nó đi bằng lệnh:


sudo apt-get clean


Ubuntu 9.10 hình như cài xong là xóa luôn nên có thể không cần đến lệnh trên.


8- Bổ xung font


Khi chạy perfectbuntu hoặc ubuntu-restricted-extra hoặc non-free-codecs đã nói ở trên, một số font Windows như Arial, Time New Romans, ... cũng được cài.


Nếu muốn bổ xung thêm các font khác cho hệ thống (user nào đăng nhập vào máy cũng dùng được):


Nhấn Alt+F2 để mở hộp thoại Run Command.


Chạy lệnh gksu nautilus để mở Nautilus bằng quyền root.


Copy các file font thêm (hoặc thư mục font thêm) vào /usr/share/fonts.


Để bổ xung font cho riêng user đang đăng nhập:


Nhấn vào menu Places > Home Folder, trong màn hình Nautilus nhấn vào menu View > Show Hidden Files.


Nhấn tiếp menu File > Create Folder . Đặt tên folder mới là .fonts (có dấu chấm đằng trước để chỉ đó là folder ẩn).


Copy các font thêm vào thư mục đó.


9- Chỉnh sửa menu và phím tắt để mở menu


Menu mặc định của Ubuntu là dạng menu bar gồm ba mục: Applications, Places và System. Có thể làm cho gọn hơn và quen thuộc hơn như sau:


Nhấn phím phải chuột vào menu bar nói trên, chọn Remove from panel.


Nhấn tiếp phím phải chuột vào panel, chọn Add to Panel.


Trong danh sách hiện lên, chọn Main Menu rồi nhấn nút Add. Menu bây giờ xuất hiện trên panel chỉ còn một icon . Nhấn vào đó menu hiện lên giống kiểu Windows.


Trong Windows, phím Start trên bàn phím là phím tắt để bật menu chính Start. Trong Ubuntu, mở terminal chạy lệnh sau:


gconftool-2 --set /apps/metacity/global_keybindings/panel_main_menu --type string "Super_L"


Từ nay, nhấn phím Start, menu chính sẽ hiện lên. Nếu vẫn dùng menu bar mặc định thì menu Applications sẽ xuất hiện.



11/5/09

Khôi phục khởi động vào Ubuntu 9.10 sau khi cài lại Windows


0- Đôi điều về GRUB2


Bắt đầu từ Ubuntu 9.10, chương trình GRUB2 được dùng thay cho GRUB1 phổ biến xưa nay. GRUB2 được viết lại từ đầu, không phải bản nâng cấp của GRUB1 do đó có nhiều điểm khác so với GRUB1. Vì vậy tìm hiểu để làm chủ được nó là cần thiết.


GRUB (viết tắt của GRand Unified Bootloader) là chương trình khởi động hệ điều hành (bootloader) dùng phổ biến ở các hệ điều hành kiểu Unix: Linux, Solaris. Windows dùng bootloader là NTLDR. Nhiệm vụ của bootloader là tải hệ điều hành vào RAM sau đó trao quyền điều khiển máy tính cho hệ điều hành.


Khi máy tính khởi động, đầu tiên nó đọc ROM BIOS để tìm xem khởi động từ thiết bị nào (CDROM, ổ cứng, ổ mềm, ổ USB hay mạng). Tiếp theo, nó tải chương trình GRUB stage 1 từ Master Boot Record (MBR) của thiết bị đó vào RAM, sau đó GRUB stage 1 chỉ làm mỗi một việc là tìm GRUB stage 2 trên thiết bị khởi động, tải tiếp nó vào RAM và chuyển quyền điều khiển cho GRUB stage 2.


GRUB stage 2 sẽ cho hiện boot menu để người dùng chọn khởi động hệ điều hành nào đang có trên ổ cứng.


Lệnh cài GRUB stage 1 là “grub-install”. File cấu hình của GRUB stage 2 với Ubuntu (trước 9.10), Debian, openSUSE là /boot/grub/menu.lst; với Fedora là /boot/grub/grub.conf; với Ubuntu 9.10 là /boot/grub/grub.cfg/etc/default/grub.


Đặc biệt, người dùng không được phép chỉnh sửa /boot/grub/grub.cfg như với menu.lst.


1- Khôi phục GRUB2 sau khi cài lại Windows:


Khi cài chung Ubuntu 9.10 và Windows trên cùng một máy, có khi sau đó phải cài lại Windows vì virus, hỏng file, v.v... Windows sẽ ghi đè lên MBR, do đó khi khởi động máy chỉ vào thẳng Windows mà không có boot menu để chọn, do đó không khởi động được Ubuntu nữa.


Để khôi phục lại boot menu, theo một trong hai cách sau:


Cách 1: dùng đĩa CD của Ubuntu 9.10.


Boot máy bằng đĩa CD Ubuntu 9.10. Khi khởi động xong, mở Terminal ( Applications > Accessories > Terminal) rồi chạy lần lượt các lệnh sau:


(Giả sử Ubuntu cài trên partition sda3 của ổ cứng sda)


sudo -i(để chuyển sang user root).


mount /dev/sda3 /mnt


grub-install --root-directory=/mnt/ /dev/sda


mount --bind /proc /mnt/proc


mount --bind /dev /mnt/dev


mount --bind /sys /mnt/sys


chroot /mnt update-grub


umount /mnt/sys


umount /mnt/dev


umount /mnt/proc


exit


Cách 2: Dùng chương trình grub4dos


Tải file zip mới nhất của grub4dos từ đây. Giải nén ra.


Với Windows XP:


Copy file grldr trong gói grub4dos vào C:\. Mở file ẩn boot.ini và thêm dòng sau vào file:



c:\grldr=”grub4dos”

Với Windows Vista và Windows 7:


Copy hai file grldr,grldr.mbr vào C:\. Tạo file boot.ini tại C:\ rồi copy và paste đoạn mã sau vào trong file:



[boot loader]
timeout=0
default=c:\grldr.mbr
[operating systems]
C:\grldr.mbr=”Grub4Dos”

Tạo file menu.lst trong C:\ , copy và paste đoạn mã sau vào trong file:



timeout 0
default 0
title grub2
find
--set-root /boot/grub/core.img
kernel /boot/grub/core.img
boot

Khởi động lại máy, chọn boot từ Grub4Dos. rồi chọn tiếp boot vào Ubuntu từ boot menu. Sau khi đã login vào Ubuntu, chạy lệnh sau trong Terminal để cài lại grub vào MBR:


sudo grub-install /dev/sda


2- Sửa một vài thông số khởi động.


Trong Ubuntu 9.10, nhấn Alt+F2 rồi chạy lệnh sau để mở file:


gksu gedit /etc/default/grub


Trong file này có một số thông số thay đổi được:


GRUB_DEFAULT=0 Trị số 0 quy định hệ điều hành tự động khởi động là ở hàng đầu tiên của boot menu , tức là Ubuntu 9.10. Muốn Windows khởi động tự động, xem nó ở hàng thứ mấy (đếm từ 0) trong boot menu rồi thay giá trị đó vào đây.


GRUB_TIMEOUT="10" 10 giây là thời gian boot menu chờ người dùng chọn hệ điều hành, nếu không chọn, hệ điều hành quy định ở GRUB_DEFAULT sẽ được khởi động. Muốn nhanh hơn có thể thay giá trị thấp hơn, ví dụ 5.


Sau khi sửa file nói trên, cần mở terminal chạy lại lệnh sudo update-grub.


3- Sửa file /boot/grub/grub.cfg


Mặc dù file này được bảo vệ rất kỹ, nhưng vẫn có thể sửa được với các lệnh sau:


sudo chmod +w /boot/grub/grub.cfg


sudo nano /boot/grub/grub.cfg


Ví dụ: khi trên máy đã cài Mandriva, sau khi cài Ubuntu 9.10 mặc dù trong boot menu có dòng dành cho Mandriva nhưng khi chọn nó thì Mandriva không khởi động được.


Nếu mở file grub.cfg như trên thì thấy đoạn dành cho Mandriva như sau:


menuentry "linux (on /dev/sda6)" {


insmod ext2


set root=(hd0,6)


search --no-floppy --fs-uuid --set 4c7b246a-654d-447d-8e6d-1b0b39f66eb1


linux /boot/vmlinuz BOOT_IMAGE=linux root=UUID=4c7b246a-654d-447d-8e6d-1b0b39f66eb1 splash=silent vga=788


initrd (hd0,5)/boot/initrd.img


}


Sửa lại dòng initrd (hd0,5) thành initrd (hd0,6) giống như dòng set root = (hd0,6) ở trên là boot vào Mandriva được.


Sửa tiếp dòng linux (on /dev/sda6) thành Mandriva (on /dev/sda6) để hiện tên Mandriva trên boot menu.


Chi tiết hơn về GRUB2 xem tại đây. và tại đây.







11/3/09

Làm gì sau khi cài xong UBUNTU 9.10 (và các bản Linux khác)


LÀM GÌ SAU KHI CÀI XONG UBUNTU 9.10 (và các bản Linux khác)


Ubuntu 9.10 bản chính thức đã khắc phục được các lỗi 1,2,3 của bản beta nêu ở đây. Sau khi cài xong, nếu muốn chung sống với các bản Linux khác đã cài dùng grub1, xem hướng dẫn ở đây.


Sau khi cài xong Ubuntu từ đĩa CD, khởi động lại máy, tôi làm các việc sau đây (một số cái áp dụng được cho cả các bản Linux khác):


1- Cài đặt kết nối mạng:


Nếu mạng không cần cài (tự cấp IP), tự kết nối thì biểu tượng của Network Manager trên panel như thế này . Nếu chưa kết nối, biểu tượng sẽ như thế này (hơi khó nhìn).


Với bản Ubuntu chính thức, Network Manager đã làm việc tốt kể cả khi cài đặt mạng với IP tĩnh. Nhấn phím phải chuột vào biểu tượng trên, chọn Connection Information để xem các thông số về mạng.


2- Chọn lại kho phần mềm:


Khi cài, Ubuntu đã chọn kho phần mềm mặc định là Server for Vietnam (vn.archives.ubuntu.com) nhưng kho này không nhanh. Nhấn chuột vào System > Administration > Software Sources > Download from > Other rồi cuốn xuống cuối danh sách, mục Vietnam để chọn kho của FPT.


3- Cài đặt thêm một số phần mềm:


Nhấn vào menu System > Administration > Synaptic Package Manager rồi chọn cài các gói phần mềm sau:




  • ubuntu-restricted-extra: để bổ xung một số phần mềm “có vấn đề” theo định nghĩa nguồn mở : flash plugin, một số font của Microsoft, một số codecs để chơi file multimedia, trình giải nén unrar, …

  • scim-bridge-client-gtk: để cài bộ gõ tiếng Việt scim-unikey. Bộ gõ ibus cài sẵn trong Ubuntu 9.10 có nhược điểm phải có phím kết thúc từ, chưa nên dùng.

  • Stardict-gnome: chương trình từ điển Stardict.

  • openoffice.org: chọn cài riêng gói này để bổ xung một số gói còn thiếu của OpenOffice.org

  • catdoc và wv: cài hai gói này để chuẩn bị cài Google Desktop Search.

  • pysdm: chương trình dùng mount tự động các partition khác trên ổ cứng vào thư mục do người dùng chọn.

  • Multimedia: Ubuntu có cài sẵn trình mediaplayer là Totem (Applications > Sound & Video > Movie Player). Nếu dùng Totem thì kiểm tra xem các gói gstreamer-plugins-good, bad và ugly (kể cả bad-multiverse và ugly-multiverse) đã cài chưa. Nhưng nên cài một trong những trình mediaplayer hay nhất hiện nay là Smplayer (và cả gecko-mediaplayer là plugin để chơi media trong Firefox).

  • sun-java6-plugin: chọn cài gói này để cải toàn bộ môi trường Java cần thiết cho các tính năng cao cấp của Openoffice.org và Firefox.

  • Peazip: đây là một trình nén và giải nén hay đã nói ở đây. Gói cài đặt không có trong kho của Ubuntu, tải về cài từ đây. Sau khi cài xong, chạy từ Applications > System Tools > peazip.desktop.

  • UDATE: tôi quên Perfectbuntu. Chạy nó để cài cả ubuntu-restricted-extra và nhiều cái khác nữa, đầy đủ hơn. Tải về tại đây. Nhấn phím phải chuột vào "Download Current Version", chọn Save Link As rồi ghi nó thành file perfectbuntu. Mở thư mục có file, nhấn phím phải chuột vào file, chọn Propeties > Permissions rồi đánh dấu chọn mục Allow executing file as program. Mỏ terminal, chuyển đến thư mục có file rồi chạy lệnh sudo ./perfectbuntu và trả lời các câu hỏi trên màn hình.


4- Cài đặt và cấu hình tiếp


a- Bộ gõ tiếng Việt scim-unikey: tải về từ đây hoặc add kho phần mềm của Ubuntu-VN theo hướng dẫn cũng tại link đó rồi cài bằng Synaptic. Cài từ kho thì có lợi là khi có bản cập nhật sẽ được tự động báo.


Sau khi cài, nhấn vào System > Administration > Language Support rồi trong mục Keyboard input method system chọn scim-bridge xong đóng màn hình lại.


Vào tiếp menu System > Preferences > SCIM Input Method Setup đặt các thiết lập sau:




  • FrontEnd > Global Setup: chọn Share the same input method

  • IMEngine > Global Setup: chọn UnikeyEnglish\European, các mục khác bỏ.

  • Panel > GTK: chọn các mục Show on Demand, Auto snap, Show stick icon, Show tray icon và Stick Windows.


Scim-unikey trong Ubuntu 9.10 có một lỗi nhỏ là tray icon (hình vuông màu da cam) không hiện được trên panel như ở các bản Ubuntu trước. Do đó phải cho hiện GTK panel (mục show on demand ở trên) để có thể điều khiển và biết tình trạng bộ gõ. Trong các bản trước, có thể tắt GTK panel (Show Never) chỉ cần dựa vào tray icon là đủ.


b-Cài các file từ điển tiếng Việt: có trong kho của Ubuntu-VN đã nói ở trên.


c- Cài các add-on của OpenOffice: tùy theo nhu cầu. Xem một số post về add-on trong blog này.


d- Mount các partition: nếu trên ổ cứng có một partition NTFS chứa thư mục MyDocuments của Windows thì vào System > Administration > Storage Device Manager mount cố định nó vào thư mục /home/<username>/DATA. Sau đó, mở thư mục DATA bằng Nautilus rồi mở tiếp MyDocument và Add Bookmark để MyDocument xuất hiện ở cột bên trái, mở cho nhanh. Lệnh mount trên chỉ cần làm một lần và được ghi vào file /etc/fstab. Lần sau khởi động sẽ tự mount.


e- Cài trình tìm kiếm Google Desktop Search: trình tìm kiếm có sẵn (Applications > Accessories > Search for file) chậm và không tìm được từ tiếng Việt unicode bên trong file. Google Desktop Search lập index sẵn nên tìm rất nhanh, tìm được cả tiếng Việt unicode bên trong file (VNI và ABC chưa thử), đồng thời tìm được trong Gmail.


Tải về cài từ đây. Sau khi cài, vào Applications > Google Desktop > Google Desktop Preferences để cấu hình. Mở màn hình tìm kiếm bằng cách nhấn hai lần phím Ctrl.


f- Cấu hình OpenOffice:


Trong Writer, nhấn vào Tools > Options để mở màn hình Options và thiết lập các mục sau:




  • Memory: thiết lập như hình sau. Nhớ chọn Enable systray Quickstarter để khởi động OpenOffice cho nhanh.


Trong mục Paths bên dưới Memory, chọn tiếp My Documents ở ô bên phải rồi nhấn nút Edit để chỉnh đường dẫn mặc định về thư mục của mình, ví dụ /home/zxc/DATA/My Documents.




  • Java: nếu dùng đến các tính năng cần Java (Mail merge,...) thì đánh dấu chọn mục Use a Java. Nếu không thì bỏ chọn để OpenOffice chạy nhanh hơn.

  • Load/Save > General: chọn Always Create backup copy và chỉnh thời gian AutoRecovery xuống 5 phút cho khỏi mất dữ liệu. Mục Document Type nên để nguyên các định dạng file ODF nếu không hay giao lưu file với các máy khác dùng Windows, định dạng ODF có dung lượng file nhỏ hơn và điều quan trọng là nó là format mặc định của OpenOffice, do đó khi save không bị mất các format đã làm, mở cũng nhanh hơn.

  • Thay style của toolbar: toolbar của OpenOffice trong Ubuntu có style mặc định là human. Nếu thích có thể cài thêm các style khác trong kho phần mềm: openoffice-style-crystal, openoffice-style-industrial, v.v... Sau khi cài xong, mở Options > OpenOffice.org > View > Icon size and style rồi chọn trong danh sách thả xuống bên phải.


Còn nhiều thứ nữa, có lẽ nên dành cho một post riêng.


g- Cài Dropbox và Ubuntu One: hai dịch vụ này có cùng một tính năng: tự động sao lưu dữ liệu của một thư mục lên Internet và tự động đồng bộ thư mục đó trên nhiều máy khác nhau và cùng một dung lượng free 2GB. Điểm khác là Ubuntu chỉ chạy được trên Ubuntu 9.10, Dropbox chạy được trên mọi hệ Linux, Windows và Mac. Dropbox đã trình bày ở đây, khi cài nên chọn đưa thư mục Dropbox vào Home/DATA/My Documents để dùng chung với Windows và các hệ Linux khác trên cùng ổ cứng.


h- Firefox: cài thêm một số extension sau:





  • Xmarks hoặc Weave Sync: hai extension này làm việc giống như Dropbox, nhưng đối tượng lưu và đồng bộ của chúng là bookmarks, password, hystory, preferences (Xmarks chỉ đồng bộ bookmarks và password). Với các extension này, dù cài đi cài lại Linux hoặc trên nhiều máy thì các dữ liệu trên vẫn giống nhau. Weave nhiều tính năng hơn nhưng hiện tại có vẻ không tốt bằng Xmarks.




  • DownThemAll : trình quản lý, tăng tốc download dưới dạng extension. Tôi dùng trình này nhiều và thấy không cần cài hoặc dùng các trình ngoài như Kget, …




  • Tab Mix Plus : quản lý các tab; nhấn vào link, bookmark tự động mở tab mới.




  • Zoho Notebook Helper : sau khi Google Notebook ngừng phát triển thì Zoho Notebook thay thế. Extension này cho phép rê chuột bôi đen một đoạn quan tâm trên trang web rồi add nó vào Zoho Notebook kèm theo cả link. Như vậy hay hơn là bookmarks.




  • VnDict : dùng tra từ điển Anh Việt khi đọc web.




  • Email This! : bôi đen một đoạn văn bản rồi gửi mail (kèm cả link). Có thể dùng cái này để ghi nhớ các đoạn văn bản quan tâm trên web thay cho Zoho Notebook Helper bằng cách gửi mail cho chính mình.




5- Thay đổi hình thức màn hình


Nhấn vào System > Preferences > Appearance. Trong màn hình Appearance Preferences, nhấn vào tab Fonts, đổi các font màn hình từ Sans sang Free Sans, cỡ font tăng lên 12. Với tôi, font Free Sans đẹp và rõ hơn Sans.


Trang trí màn hình theo hướng dẫn ở đây.


Thay theme mặc định bằng theme khác theo hướng dẫn ở đây.


Tự động thay wallpaper theo hướng dẫn ở đây.


6- Cài thêm Desktop Environment


Môi trường đồ họa (Desktop Environment) mặc định của Ubuntu là Gnome. Mở Synaptic, cài thêm hai môi trường khác là KDE và Xfce (kèm theo cả một số ứng dụng cơ bản như email, trình duyệt file, v.v..) từ hai gói: kubuntu-desktop xubuntu-desktop.


Để làm việc bình thường có thể dùng KDE hoặc Gnome tùy thói quen và sở thích. Khi cần nhanh thì log in vào Xfce. Cách log in và chọn môi trường đồ họa hơi khác các bản Ubuntu cũ: trước tiên phải nhập username và password, khi đó ở đáy màn hình xuất hiện một panel, trong đó có mục cho chọn Gnome, KDE hay Xfce.


Xem tiếp tại đây.


Còn một số thứ khác, tham khảo thêm ở đây.


















10/29/09

Lỗi “UNEXPECTED INCONSISTENCY; RUN fsck MANUALLY”


LỖI “UNEXPECTED INCONSISTENCY; RUN fsck MANUALLY”


Trong quá trình khởi động Linux, màn hình đang ở chế độ đồ họa chuyển sang chế độ text đen trắng và có thông báo lỗi như thế này:


/dev/sda4: UNEXPECTED INCONSISTENCY; RUN fsck MANUALLY
(i.e., withou -a or -p options)


(/dev/sda4 có thể thay đổi tùy từng máy: /dev/sda2, /dev/hda5, v.v...).


Thông báo trên có nghĩa là “Hệ thống file trên partition /dev/sda4 có lỗi không tương thích; chạy lệnh fsck bằng tay để chữa”.


Lỗi không tương thích của hệ thống file thường là do máy bị shutdown không sạch (unclean - do tắt điện bất thình lình, do máy bị treo rồi tắt điện cưỡng bức) hoặc do ổ cứng có bad block.


Khi đó, dữ liệu file lưu khác với dữ liệu trong nhật ký, và như thế là lỗi (xem thêm về hệ thống file nhật ký tại đây). Khi khởi động, Linux tự phát hiện ra lỗi đó và cho chạy fsck để tự chữa lỗi. Chỉ khi nào không chữa được mới có thông báo trên yêu cầu người dùng chạy fsck bằng tay.


Cần nhớ: để an toàn, chỉ được dùng fsck kiểm tra các partition không mount.


Có hai trường hợp xảy ra tiếp theo:


a/ Nếu partition sda4 đang cài Linux (mount vào thư mục gốc /) thì lỗi nằm ở các file hệ thống và Linux sẽ ngừng khởi động chở xử lý.


b/Nếu partition sda4 không mount vào thư mục gốc, mà chỉ là partition phụ để chứa dữ liệu (như ổ D trong Windows) thì Linux vẫn khởi động tiếp nhưng partition đó không được mount.


Nếu là trường hợp b/ thì cách chữa đơn giản hơn:


1- Mở kiểm tra thư mục dùng mount sda4 (ví dụ /mnt/data, …) để chắc chắn là đã không mount: trong thư mục đó không có dữ liệu chứa trên sda4.


2- Mở terminal và chạy các lệnh sau:


sudo fsck -c /dev/sda4 (với Ubuntu)


hoặc với Mandriva chạy hai lệnh:


su (để chuyển sang root)


fsck -c /dev/sda4


Option -c để chương trình kiểm tra và đánh dấu các bad block nếu có.


Nếu trên máy có cài Gparted có thể dùng Gparted để kiểm tra như đã nói ở đây. mà không dùng lệnh. Tuy nhiên, không rõ lệnh check của Gparted có kiểm tra và đánh dấu các bad block không?


Nếu là trường hợp a/ thì an toàn nhất là khởi động lại máy từ một đĩa Linux LiveCD (đĩa nào cũng được, không nhất thiết phải trùng với bộ Linux đã cài trên ổ cứng). Khi khởi động như vậy, các partition đều không được mount. Khi đã vào chế độ LiveCD, mở terminal hoặc chạy Gparted để kiểm tra giống như trên.


Ngoài các bộ Linux thông thường, có hai bộ Linux chuyên dùng để sửa chữa là SystemRescueCDGpartedLive. có thể tải về ghi thành đĩa Live CD hoặc ổ Live USB. Khi cần boot máy từ đó để sửa. SystemRescueCD nhiều công cụ hơn, GpartedLive chỉ có Gparted nên dung lượng chỉ có 100MB.







10/28/09

Làm cho Linux nhanh hơn, nhẹ hơn và mạnh hơn


Làm cho Linux nhanh hơn, nhẹ hơn và mạnh hơn


(Tối ưu hóa quá trình boot, KDE, GNOME, kết nối mạng và nhiều thứ khác)


By Bob Moss   8/10/2009 at 14:15 BST                                                              ZXC232 lược dịch và bổ xung


( Một số chiêu thức dưới đây, nếu công lực chưa đủ thì đừng nên thực hiện. Một số trường hợp cách làm có thể khác nhau trên các bản Linux khác nhau, tác giả viết trên cơ sở openSUSE)

1- CHO LINUX KHỞI ĐỘNG NHANH HƠN.


Bỏ thời gian timeout:


Dùng quyền root mở file /boot/grub/menu.lst trong một trình soạn text và tìm dòng sau đây (thường ở ngay đầu file):

timeout=3

Đây là thời gian chờ để các phần cứng cũ có thể tải các module driver. Đổi timeout=0 sẽ khởi động nhanh hơn được 3 giây.

CHÚ Ý: điều nói trên chỉ đúng nếu trên ổ cứng chỉ cài một hệ điều hành duy nhất là Linux. Khi có từ hai hệ trở lên, thường timeout=10 (giây) là thời gian boot menu chờ người dùng chọn khởi động hệ điều hành nào. Nếu không chọn, hệ điều hành default sẽ được khởi động. Đặt timeout=0 sẽ làm cho bootmenu không xuất hiện nữa, sẽ không chọn khởi động được các hệ điều hành khác).

Tăng tốc ổ cứng.


Nếu ổ cứng có tính năng DMA (Direct Memory Access), có thể tăng tốc đọc dữ liệu bằng lệnh hdparm chạy trong terminal như sau (với quyền root):

hdparm -d1 /dev/hda1

trong đó /dev/hda1 là boot partition của bản Linux đang xét. Tùy máy và cách cài, có thể là hda2, sda5, ...

Trong Gnome có thể cho chạy tự động lệnh này tại System > Administration > Services. Thêm dòng lệnh trên với gksudo ở đầu.

Chi tiết hơn về lệnh này xem tại đây.

Chạy song song các tiến trình khi boot


Dùng quyền root mở file /etc/init.d/rc trong một trình soạn text (gedit hoặc kwrite) rồi tìm dòng sau:

CONCURRENCY=none

Thay none bằng shell, thời gian boot có thể giảm được 1-2 giây.

Tối ưu hóa bộ nhớ


Một cách tốt để tăng tốc Linux là quy định việc sử dụng swap. Swap partition là nơi Linux dùng làm bộ nhớ ảo, lưu các dữ liệu tạm để có thể nạp nhanh vào RAM khi cần. Nếu RAM đủ lớn ( 1GB) thì nên giảm việc dùng swap và tốc độ sẽ tăng đáng kể.

Cách thay đổi mức độ swap xem tại đây.

CHÚ Ý: các cách tăng tốc boot nói trên có lẽ chỉ đúng cho các bản Linux cũ. Các phiên bản Linux gần đây đều cố gắng giảm thời gian boot xuống dưới 10 giây nên các cách trên không giúp được nhiều.

2- GNOME


Dùng preload


Preload là một trình thường trú (daemon) theo dõi các hoạt động hàng ngày để lúc khởi động tải trước các chương trình, file thường dùng nhằm tăng tốc hệ thống.

Trước hết kiểm tra trong danh sách các processes xem preload đã chạy chưa. Nếu không thấy, kiểm tra xem đã cài chưa (Ubuntu thường chưa cài), rồi kích hoạt bằng lệnh:

service preload on

Automatic login


Máy dùng chung thì không nên kích hoạt tính năng này. Nhưng máy cá nhân và không sợ người khác tò mò thì Automatic login đỡ mất thời gian chờ gõ username và password.

Chọn lần lượt System > Administration > Login Window > Security > Enable Automatic Login.

Dùng khung cửa sổ thay cho ảnh cửa sổ


Khi nhấn chuột vào thanh tiêu đề rồi rê một cửa sổ (window) từ chỗ này sang chỗ khác, trong quá trình rê, toàn bộ ảnh cửa sổ vẫn giữ nguyên. Để đỡ cho Gnome khỏi phải làm việc đó (tốc độ sẽ giảm), mở terminal gõ vào lệnh sau:

gconftool-2 --type bool --set /apps/metacity/general/ reduced_resources true

Bây giờ khi rê cửa sổ sẽ chỉ có hình khung rê theo. Chú ý thủ thuật này chỉ có tác dụng nếu không dùng Compiz hoặc các hiệu ứng màn hình.

Làm menu hiện nhanh hơn.


Khi mở các menu Gnome lần đầu, các ảnh của icon được tải từ file nguồn, menu có thể không xuất hiện ngay. Nếu máy đủ mạnh, mở thư mục Home, tạo một file ẩn mới .gtkrc-2.0 (chú ý đầu tên file ẩn có dấu chấm). Sau đó mở file nói trên bằng trình soạn text (gedit) rồi thêm dòng sau:

gtk-menu-popup-delay=0

Save rồi đóng file lại. Log out ra rồi log in lại, menu sẽ xuất hiện nhanh hơn.

3- KDE


Tăng tốc ext3


Có thể tăng tốc đáng kể bằng cách dùng kiểu ghi ổ cứng write-back của hệ thống file ext3. ( ext3 có ba kiểu ghi dữ liệu lên ổ cứng, xem tại đây). Thủ thuật này không chỉ áp dụng cho KDE, mà dùng được cho hầu hết các bản Linux hiện nay không dùng kiểu ghi này ( kiểu ghi mặc định của ext3 là ordered).

Nguyên nhân chính là do các ổ cứng kiểu cũ không hỗ trợ kiểu ghi này. Hiệu quả không rõ lắm trên một máy dùng ở nhà, nhưng sẽ thấy rõ trong những máy ghi ổ cứng nhiều, ví dụ các máy chủ. ( Lưu ý: được cái nọ thì mất cái kia, write-back ghi nhanh nhất nhưng có thể mất dữ liệu, data chậm nhất nhưng an toàn nhất)

Backup file /etc/fstab rồi dùng quyền root mở nó trong một trình soạn text và tìm đoạn sau:

relatime,errors=remount-ro

thay nó bằng đoạn này:

noatime,nodiratime,errors=remount-ro,data=writeback

Dùng quyền root mở file /boot/grub/menu.lst trong một trình soạn text rồi tìm các dòng sau:

# defoptions quiet splash
#altoptions=(recoverymode) single

Thêm đoạn dưới đây vào cuối hai dòng đó:

rootflags=data=writeback

Save file và đóng lại. Mở terminal chạy lệnh update grub.

Tắt IPv6


Hiện IPv6 chưa phổ biến, trình duyệt web Konqueror phải chuyển đổi giữa IPv4 và Ipv6. Có thể tắt IPv6 đi. Cách làm tùy từng bản Linux.

Trong Kubuntu, dùng quyền root mở file /etc/environment và thêm dòng sau:

KDE_NO_IPV6=True

Trong openSUSE, dùng quyền root mở file /etc/sysconfig/windowmanager tìm dòng sau:

KDE_USE_IPV6="yes"

thay yes bằng no.

Automatic login


Vào System Settings, nhấn Advanced tab, nhấn tiếp vào Login Manager > Convenience rồi kích hoạt Auto Login.

Bắt đầu một phiên làm việc trống (empty session)


Khi kết thúc một phiên làm việc (log out hoặc shutdown, restart), KDE4 ghi lại trạng thái phiên đó (các cửa sổ đang mở, các tiến trình đang chạy, …) và trong phiên tới, nó mở lại đúng phiên cũ.

Nếu không cần điều đó, hãy mở System Settings > Advanced > Session Manager, chọn mục Start with an empty session rồi nhấn nút Apply.

4- NETWORK


Dùng hostname là 'localhost'


Dùng quyền root mở file /etc/hosts trong một trình soạn text và thay hai dòng đầu thành như sau:

127.0.0.1 localhost
yourhost 127.0.1.1 yourhost

trong đó yourhost là tên đặt cho máy (ví dụ: zxcdesktop). Nhớ sao lưu file /etc/hosts trước khi sửa vì không phải bản Linux nào cũng tương thích với cách làm trên!

Tối ưu hóa các thiết lập của TCP


Dùng quyền root, mở file /etc/sysctl.conf trong một trình soạn text và thêm các dòng sau:

net.ipv4.tcp_timestamps = 0
net.ipv4.tcp_sack = 1

Dòng đầu bỏ các dữ liệu thời gian, bớt được 12k cho mỗi gói tin. Dòng thứ hai kích hoạt việc xác nhận chọn lọc, bớt được các công đoạn kiểm tra mỗi gói tin do đó lưu thông sẽ nhanh hơn.

Metrics và backlogs


Có thể tiếp tục tối ưu hóa TCP bằng cách thêm hai dòng sau vào file nói trên:

net.ipv4.tcp_no_metrics_save = 1
net.core.netdev_max_backlog = 2500

Dòng trên tăng tốc kết nối bằng cách tránh không save TCP metric cho từng gói tin. Dòng thứ hai quy định kích thước backlog cho phép.

Với kết nối không dây hoặc Ethernet cũ, backlog khoảng 2000, kết nối cáp 1GB backlog khoảng 5000.

TCP window scaling


Thiết lập này của TCP quy định kích thước gói tin tối thiểu và tối đa có thể gửi và nhận. Kết nối dial-up sẽ nhanh hơn khi kích thước gói nhỏ hơn, ngược lại kết nối băng rộng sẽ nhanh khi kích thước gói tin lớn.

Dùng quyền root mở file /etc/sysctl.conf và thêm vào đó:

net.ipv4.tcp_window_scaling = 1
net.ipv4.tcp_wmem = 10240 87380 16777216
net.ipv4.tcp_rmem = 10240 87380 16777216
net.ipv4.tcp_mem = 16777216 16777216 16777216
net.core.rmem_max = 16777216
net.core wmem_max = 16777216

Các số trên tối ưu cho kết nối 2Mbps, nói chung kích thước gói tối ưu tính bằng cách lấy băng thông lớn nhất (maximum bandwidth) chia cho độ trễ (latency). Hai số đó có thể xác định từ www.speedtest.net và kết quả thay đổi thế nào xác định theo www.speedguide.net:8080

( Trong Network Center của Mandriva có mục Advanced Settings cho phép disable Ipv6, TCP Windows Scanling và TCP Timestamps)

5- FIREFOX


Tắt IPv6


Gõ vào thanh địa chỉ: about:config rồi Enter. Xuất hiện màn hình cảnh báo, nhấn tiếp vào nút I'll be carefull.

Trong màn hình mới, gõ vào ô Filter dòng sau:

network.dns.disableIPv6

Chỉ cần gõ vài từ đầu là thông số trên đã hiện lên ở dưới. Kích đúp chuột vào đó để đổi mục Value từ “False” thành “True”. Đóng màn hình config lại.

Hiển thị trang web nhanh hơn


Trong màn hình about:config, nhấn phím phải chuột, chọn New > Interger. Trong màn hình con xuất hiện gõ vào content.notify.backoffcount rồi OK. Trong màn hình con tiếp theo nhập vào số 5 rồi OK. Thiết lập này bảo Firefox không cần chờ cả trang web tải về mới hiển thị.

Tương tự như trên, tạo thông số nglayout.initialpaint.delay rồi gán giá trị bằng 0 (số không). Thông số này quy định Firefox không cần chờ toàn bộ thông tin kết cấu trang tải về xong mới hiển thị trang.

Tối ưu hóa lịch sử duyệt web.

Nếu giảm khối lượng lịch sử duyệt web mà Firefox phải lưu thì nó sẽ xuất hiện nhanh hơn và tiết kiệm ổ cứng. Trong màn hình about:config, gõ vào ô Filter:

browser.history

rồi nhấn đúp chuột vào các thông số browser.history_expires_daysbrowser.history_expires_days_min đổi chúng về giá trị nhỏ hơn.

Tiếp tục chỉnh các thiết lập của TCP


Vẫn trong màn hình about:config , chỉnh các thông số network.http.pipeliningnetwork.http.proxy.pipelining từ “False” thành "True". Đổi giá trị của network. http.pipelining.maxrequests từ 4. thành 8.

(Firefox 3.5 đã đặt sẵn các thông số này giống như trên)

Hiển thị menu nhanh hơn


Trong màn hình about:config, nhấn phím phải chuột chọn New > Integer. Nhập tên thông số mới là ui.submenuDelay và đặt giá trị của nó bằng 0 (số không).

Khi khởi động lại Firefox sẽ thấy menu xuất hiện nhanh hơn đáng kể.

6-PHẦN MỀM.


Truy cập các kho phần mềm


Khi cài đặt, Ubuntu mặc định chọn kho phần mềm dành cho Việt nam (Server for Vietnam) nhưng kho đó ở Mỹ và không nhanh. Nhấn vào Other > Select Best Server, chương trình sẽ test khoảng 300 máy chủ trên toàn thế giới để chọn máy nhanh nhất. Tuy nhiên có điều lạ là mặc dù máy chủ của FPT được đăng ký chính thức trong danh sách đó nhưng thường không được chọn theo cách test trên. Thực tế sử dụng thì kho của FPT là nhanh nhất. Vì vậy không cần test, cuốn danh sách xuống dưới cùng đến mục Vietnam để chọn kho mirror-fpt-telecom.fpt.net.

Mandriva từ bản 2009 không cho chọn kho phần mềm riêng biệt mà theo một mirror list chung. Về nguyên tắc khi download, chương trình sẽ tự chọn kho nhanh nhất. Tuy nhiên, nếu đang download mà kho đó treo phải tắt chương trình cài phần mềm Software Management rồi bật lại để chương trình chọn sang kho khác.

Mandriva có cái dở là thông tin mô tả phần mềm khi cần mới tải về và quá trình tải cũng lâu. Vì vậy tốt nhất là tắt tính năng đó đi ( Control Center > Install & Remove Software > Options > Media Manager > Options > Global Options rồi chọn XML meta-data download policy là never).

Mandriva cho chọn ba chương trình download khác nhau. Vì vậy khi trục trặc có thể chuyển sang chọn chương trình khác, về nguyên tắc aria2 là hay nhất. Thực tế sử dụng thì aria2 chập chờn, lúc rất tốt, lúc lại tịt. Khi đó phải chọn chương trình download khác (curl hoặc wget) cũng ở cùng màn hình Global Options như trên.

Dọn phần mềm thừa


Khi tải phần mềm về cài, Ubuntu lưu các gói cài đặt trong thư mục /var/cache/apt. Khi cài xong, để xóa các gói lưu đó, mở terminal chạy lệnh:

sudo apt-get clean

Xóa các file “mồ côi” bằng lệnh:

sudo apt-get autoremove

Mandriva khi cài xong tự xóa cache. Thỉnh thoảng xóa file “mồ côi” bằng các lệnh:

su

urpme –auto-orphans

OpenOffice.org chạy nhanh hơn


Trong màn hình OpenOffice.org, nhấn vào Tools > Options > Memory:




  • Giảm số bước undo (Number of steps) xuống khoảng 20.

  • Tăng lượng lượng cache dành cho các đối tượng đồ họa trong file (Graphic cache) lên khoảng 128MB (hoặc hơn tùy theo RAM của máy).

  • Đánh dấu chọn mục Enable systray Quickstarter để khởi động trước một phần OpenOffice khi khởi động máy (sẽ xuất hiện một icon trên System Tray).

  • Trong mục Java ở cột bên trái, bỏ chọn mục Use a Java runtime environment (nếu không dùng các tính năng cao cấp của OpenOffice).


7- DÙNG MỘT “BỘ ÁO” NHẸ HƠN.


Ngoài các môi trường đồ họa có sẵn khi cài đặt (KDE hoặc GNOME), Linux còn nhiều “bộ áo” khác (xem thêm ở đây).

Nếu cần nhanh, có thể sắm thêm một bộ áo thể thao, xfce chẳng hạn, để dùng khi cần. Khi không cần lại khoác áo dạ hội KDE4 hoặc áo đi làm GNOME.

Trong Ubuntu, Kubuntu, cài thêm gói phần mềm xubuntu-desktop.(có trong kho phần mềm).

Trong Mandriva, vào Menu > Install & Remove Software:


Ở ô trên cùng chọn Meta packages như trong hình trên. Chọn tiếp mục Xfce ở cột bên trái rồi chọn cài task-xfce-minimal ở cột bên phải.


Trong màn hình Login của Ubuntu, Kubuntu từ 9.04 về trước, chọn Options > Sessions rồi chọn Xfce. Ubuntu, Kubuntu 9.10: nhập username, password rồi chọn Xfce ở đáy màn hình.

Trong màn hình Login của Mandriva, nhấn vào biểu tượng quyển sổ+bút chì để chọn Xfce.