12/18/09

15 triệu người dùng bộ phần mềm cộng tác nguồn mở Open-Xchange


15 Million Now Using Open-Xchange Open Source Collaboration


( Cùng với Zimbra đã nói ở đây, tôi giới thiệu thêm bài này để biết rằng bên ngoài lũy tre làng Microsoft còn có những chân trời khác).


NUREMBERG, Germany, December 17, 2009 - Open-Xchange, nhà cung cấp hàng đầu phần mềm nguồn mở cộng tác doanh nghiệp đã đạt tới hơn 15 triệu người dùng trên toàn cầu - một tỷ lệ tăng trưởng 80% trong năm 2009.


( Open-Xchange là bộ phần mềm cộng tác nguồn mở, tương tự như Zimbra, Microsoft Exchange + Outlook, có các dịch vụ: thư điện tử, sổ địa chỉ, lịch, quản lý công việc, quản lý và chia sẻ tài liệu. Phần mềm client cũng là dạng web-based dùng công nghệ Web 2.0 như Zimbra. Điểm đặc biệt là rất dễ mở rộng do đó thích hợp cho các nhà cung cấp dịch vụ. Có thể tải về cài từ đây)


Kết quả trên có được nhờ các hợp đồng với các nhà cung cấp dịch vụ dùng phần mềm (Software-as-a-Service, SaaS): Versatel (công ty viễn thông lớn thứ ba của Đức có 1,3 triệu tài khoản thư điện tử), Dotster (một trong những nhà quản lý tên miền lớn nhất thế giới có hàng trăm nghìn khách hàng), NameCheap (một trong những công ty hàng đầu về quản lý tên miền và cung cấp dịch vụ web hosting có 1 triệu domain), Nexen-Alterway Hosting (công ty hàng đầu của Pháp về web hosting nguồn mở) và NTS (một nhà phân phối hàng đầu ở thị trường châu Á). Trừ NTS - nhà phân phối đầu tiên bước vào thị trường dịch vụ dùng phần mềm ở châu Á - các công ty khác đã thay hệ thống webmail cũ của họ bằng Open-Xchange và bán các dịch vụ cộng tác, kết nối với thiết bị di động có trong Open-Xchange .


Bộ phần mềm này cũng đang được 3500 công ty và tổ chức khác trên toàn cầu sử dụng trong nội bộ, trong đó năm 2009 có thêm một ngân hàng bán lẻ lớn của Nhật và trường đại học Hospital Cologne của Đức.


Trong năm 2009, công ty bổ xung thêm một tính năng làm việc nhóm mới gọi là “Social OX”: tổ hợp các thư điện tử từ Google, Yahoo và các nhà cung cấp dịch vụ thư điện tử khác vào các thư mục trong Open-Xchange và tự động bổ xung các địa chỉ quan hệ từ các mạng xã hội Facebook, LindedIn, Xing vào sổ địa chỉ của Open-Xchange.


Với chức năng OXtender for Business Mobility được bổ xung năm 2009, người dùng có thể nhận được push e-mail và đồng bộ sổ địa chỉ, lịch, các thông tin khác từ tài khoản Open-Xchange với các smartphones: Iphone, BlackBerry, Nokia, Windows Mobile, ...



12/17/09

Vài ý kiến về một dự thảo thông tư của bộ Giáo dục


Một vài ý kiến về dự thảo


THÔNG TƯ


Quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở


trong các cơ sở giáo dục”


Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa đưa dự thảo “Thông tư Quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục” lên trang web của bộ để xin ý kiến đóng góp. Là một fan của PMNM tôi cũng mạo muội có vài ý kiến như sau (qua những thành công và thất bại của bản thân):


1- Thiếu một đường lối chỉ đạo chiến lược về ứng dụng PMNM (hoặc nó ở văn bản khác?). Ví dụ:“Trong ứng dụng phần mềm, dùng phối hợp PMNM và PMNĐ một cách hợp lý”. Hai cái này không loại trừ lẫn nhau, có thể vẫn phải dùng PMNĐ nếu nó có những tính năng người dùng thật sự cần mà PMNM chưa có. Ví dụ: đối với lớp cán bộ già hoặc trẻ nhưng IQ thấp, trước đây học Windows đã vô cùng vất vả và đến nay vẫn chưa thạo Windows thì không nên bắt chuyển đổi. Để họ dùng Windows là hợp lý.



2- Điều 4: Về mục đích sử dụng PMNM trong ngành giáo dục: Khuyến khích tìm hiểu và làm quen với một loại phần mềm mới, trong nhiều trường hợp thay thế được các phần mềm nguồn đóng với nhiều ưu điểm hơn để mở rộng khả năng lựa chọn. (Thay cho mục Tạo sự thích nghi ...)
3- Điều 5: Danh mục PMNM: nên đưa Ubuntu vào. Tôi không phải fan của Ubuntu nhưng riêng về mặt mức độ phổ biến, nhiều người Việt đã có kinh nghiệm sử dụng, nhiều tài liệu tiếng Việt thì nên dùng. Và cũng nên dùng hẳn một hệ điều hành, ngành Giáo dục mới đi trước một bước so với yêu cầu chỉ dùng PMNM trên Windows hiện nay. Qua kinh nghiệm, Ubuntu hoàn toàn có thể dùng được trong công tác văn phòng.
4- Điều 7: để triển khai toàn quốc PMNM thì không chỉ cần có kho. Cần có:



    • Tại Cục CNTT: một đội ngũ mạnh về PMNM , soạn các hướng dẫn cài đặt sử dụng tiếng Việt, có webiste riêng để tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, hỗ trợ. Website này phải thực sự hiệu quả đối với các tỉnh, các trường. Có kế hoạch đào tạo để tiến tới hình thành đội ngũ trên ở các trung tâm vùng, tỉnh rồi đến từng trường.




    • Một kế hoạch hành động cụ thể , có các bước đi cân nhắc cẩn thận (tham khảo cái này). Ví dụ: việc dùng Ubuntu ban đầu các cán bộ chuyên trách về tin học phải dùng trước, sau đó mở rộng dần. .




    • Đặc biệt chú trọng tuyên truyền nâng cao nhận thức . PMNM là gì, ai đang dùng nó, dùng vào những việc gì? ( tham khảo). Bác Q.T.Ngọc chắc chưa quên cái thời phải vất vả giải thích tin học là cái gì, dùng làm gì trước đây. Nhận thức về vai trò, tác dụng của PMNM hiện nay rất yếu, ngay cả trong đội ngũ fan của PMNM. Hình thức: qua website nói trên, qua các buổi nói chuyện (đặc biệt nên có các buổi nói chuyện riêng cho lãnh đạo các cấp), demo phần mềm tại các trường, qua báo chí của ngành, v.v.... Chỉ có nhận thức tốt mới có sự ủng hộ, niềm say mê, tin tưởng.




    5- Điều 11: do đội ngũ kỹ thuật về PMNM nói chung còn yếu và thiếu, việc tổ chức triển khai phải từ bộ, do bộ chỉ đạo cụ thể và chi tiết. (trừ những nơi có đội ngũ đủ mạnh). Phải có kinh phí triển khai: thuê ngoài (nếu có) hoặc cục CNTT làm dịch vụ có thu phí cho các cơ sở. Cục tổ chức được là tốt nhất (ít nhất là trong giai đoạn đầu). Chất lượng thuê ngoài rất phập phù và độ tin cậy thấp. Tối thiểu phải có một hướng dẫn chi tiết thì đơn vị mới triển khai được.
    6- Điều 15: không nên đặt tỷ lệ cứng cho chi triển khai. Chi phí dịch vụ này có thể kiểm soát được một cách tương đối.
    7- Điều 17: Tổ chức thực hiện: một số ý kiến về tổ chức thực hiện đã nêu ở trên. Đây là một cuộc cách mạng trong ứng dụng phần mềm. Vậy phải có:



      • Một “đảng” nòng cốt, có bộ tham mưu, có chân rết xuống từng “chi bộ”. (hệ thống các đội kỹ thuật từ bộ xuống cơ sở).




      • Có chiến lược, sách lược, kế hoạch hành động đúng. (nếu chỉ có thông tư này thì chưa đủ).




      • Chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, “rải truyền đơn”.




      8- Vì thiếu đường lối chung như nói ở mục 1 nên phạm vi ứng dụng hơi rộng. Theo tinh thần thông tư thì ví dụ toàn bộ phải dùng OpenOffice. Nên để lại một vài bản Microsoft Office để giải quyết những trường hợp không tương thích.


      Cai nghiện nói chung (thuốc lá, rượu, ma túy, …) ai cũng biết là vô cùng khó khăn. Cai nghiện Windows số lượng lớn gần như là việc “đội đá vá trời” nhưng không phải là không làm được . Những người chủ trì công việc này phải nhận thức được điều đó.


      Vài ý kiến chân thành mong cho sự nghiệp chung phát triển. Vì chỉ được đọc Thông tư nên có thể một số điểm đã có trong các văn bản khác của bộ.



      12/16/09

      Các tổ chức tài chính Autralia, New Zealand chuyển sang dùng Linux

      Aussie financial firms dump Unix, Windows for Linux on the mainframe

      By Pam Derringer, News Contributor

      10 Sep 2009 | SearchDataCenter.com


      CHICAGO -- Tại cuộc họp thượng đỉnh của Red Hat mới đây ở Chicago, Kiến trúc sư trưởng các giải pháp Andrew Hardy đã giới thiệu ba trường hợp khách hàng là các tổ chức tài chính đã chuyển từ các hệ thống nhiều máy chủ Unix và Windows sang một vài máy chủ cỡ lớn (mainframe) IBM System Z chạy Red Hat Enterprise Linux.

      Năm 2007, công ty bảo hiểm lớn thứ tư của Úc Allianz Australia Insurance Ltd. đã dùng hết giới hạn 700 máy chủ Windows và thiết bị mạng của họ.

      Công ty quyết định bỏ các máy chủ Windows thay bằng hai máy mainframe IBM z10 chạy Red Hat Enterprise Linux 5.3 trên bộ xử lý Integrated Facility for Linux (IFL). IFL cho phép người dùng chạy Linux trên các máy tính lớn với chi phí thấp.

      Hệ thống mới đi vào hoạt động tháng 4/2007. Đội tin học của Allianz dùng mạng Red Hat Satellite và JBoss Operations để theo dõi và quản trị tập trung hệ điều hành và các ứng dụng, kể cả các máy ảo Java.

      Với hệ thống mới, Allianz chỉ cần 2 người quản lý thay cho 18 người quản lý các máy Windows. Kết quả: Allianz dự kiến mỗi năm tiết kiệm được 1 triệu USD chi phí phần cứng và hỗ trợ và giảm được 20% lượng khí thải carbon ( do giảm lượng tiêu thụ điện).

      Suncorp là một tổ chức tài chính khác của Úc chuyển đổi từ các phần mềm độc quyền (hệ điều hành IBM AIX và phần mềm BEA WebLogic) sang Red Hat Enterprise Linux và JBoss trên mainframe IBM z10. Suncorp cũng chuyển từ cơ sở dữ liệu Oracle sang cơ sở dữ liệu nguồn mở Postgres.

      “ Suncorp lo lắng vì Oracle đang trở thành một mối rủi ro. Ngoài ra họ cũng cần phải cắt giảm chi phí. Vì vậy họ chuyển toàn bộ sang nguồn mở” Hardy cho biết.

      Hệ thống hiện đã qua giai đoạn thử nghiệm và đang chuyển sang hoạt động thật.

      Ngân hàng New Zealand cũng đã thay 130 máy chủ phần lớn là máy Sun Sparc (chạy Unix) bằng hai máy mainframe IBM: một máy IBM z10 phục vụ hoạt động hàng ngày và một máy IBM z9 để dự phòng sự cố, dùng phần mềm ảo hóa zVM. Cả hai mainframe đều chạy hệ điều hành Red Hat Enterprise Linux trên các bộ xử lý IBM IFL.

      Theo Hardy, ngân hàng New Zealand hoàn thành việc chuyển đổi trong sáu tháng năm 2007, vượt trước kế hoạch. Hệ thống mới không chỉ đơn giản hơn, hiệu quả hơn mà còn giảm được 30% diện tích buồng máy, giảm lượng điện tiêu thụ 38%, giảm 39% khí thải carbon, tiến tới trung hòa về carbon (carbon neutral) vào năm tới ( không hiểu khái niệm này nghĩa là gì?)

      Các ví dụ chuyển sang mainframe thành công này có thể đủ hấp dẫn để các tổ chức IT khác xem xét đến phương án đó thay cho các hệ thống tính toán phân tán trên nhiều máy chủ hiện nay.

      Chuck Matern, một nhân viên IT của Home Depot nói các ví dụ trên “ đã thay đổi cách nhìn của tôi về giá trị của ảo hóa Linux trên các máy System z, đặc biệt là ý tưởng chạy file và print server trên mainframe. Tôi sẽ xem xét chúng”

      /home/zxc/DATA/Mydocuments/Dropbox/Bai viet blog/Các tổ chức tài chính Autstralia, New Zealand chuyển sang dùng Linux.odt Page2of2


      12/12/09

      Quân đội Pháp về phe Mozilla trong cuộc chiến thư điện tử với Microsoft.


      Quân đội Pháp về phe Mozilla trong cuộc chiến thư điện tử với Microsoft.


      Hãng tin Reuters


      By Marie Mawad and David Lawsky Marie Mawad And David Lawsky


      Thu Dec 10, 4:57 am ET


      PARIS/SAN FRANCISCO (Reuters) – Một phần mềm thư điện tử cá nhân được Mozilla công bố tuần qua có chứa các mã từ một nguồn khác thường - quân đội Pháp - nơi cho rằng sản phẩm nguồn mở đó an toàn hơn sản phẩm cạnh tranh Outlook của Microsoft.


      Cách đây 6 năm, chính phủ Pháp bắt đầu tham dự vào phong trào phần mềm nguồn mở, một phong trào đã biến đổi nhiều phần mềm trên thế giới từ độc quyền thành phần mềm tự do.


      Quân đội Pháp đã chọn phần mềm nguồn mở sau một cuộc thảo luận nội bộ trong chính phủ bắt đầu từ năm 2003 và lên tới đỉnh điểm vào 6/11/2007 bằng một chỉ thị yêu cầu các cơ quan chính phủ “Tìm kiếm sự độc lập tối đa về công nghệ và thương mại” ( trong lĩnh vực phần mềm, tức là tránh không để bị trói buộc vào các phần mềm thương mại độc quyền)


      Các nhà quân sự thấy rằng thiết kế nguồn mở của Mozilla cho phép nước Pháp có thể bổ xung các tính năng an toàn (security extensions), trong khi phần mềm độc quyền, giữ kín mã nguồn của Microsoft không cho phép sửa đổi.


      “Chúng tôi bắt đầu bằng một dự án quân sự và nhanh chóng mở rộng nó,” trung tá Frederic Suel thuộc bộ Quốc phòng, một trong những người chịu trách nhiệm về dự án cho biết.


      Lực lượng Cảnh sát quốc gia, thời đó còn thuộc bộ Quốc phòng, đã thiết kế và công bố một số công trình của họ cho công chúng dưới tên “TrustedBird”, đứng chung tên Thunderbird với Mozilla.


      Quân đội Pháp đã sử dụng phần mềm thư điện tử Thunderbird của Mozilla (và trong một số trường hợp có bổ xung thêm phần bảo mật TrustedBird) trên 80,000 máy tính, mở rộng sang cả các bộ Tài chính, Nội vụ và Văn hóa.


      LINUX CŨNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN.


      Chính phủ Pháp đang bắt đầu chuyển sang các phần mềm nguồn mở khác: Linux thay cho Windows và OpenOffice thay cho Microsoft Office.


      Các nhóm lập trình phi lợi nhuận của các nhà lập trình tình nguyện đã làm phần lớn các chương trình nguồn mở như thế, bao gồm phần mềm máy chủ Samba, trình duyệt web Firefox nổi tiếng của Mozilla.


      Thunderbird 3 có dùng một số mã của dự án TrustedBird, đã được xây dựng bởi 1000 các nhà lập trình và người dùng khác trên toàn thế giới.


      “Thay đổi chính mà các nhà lập trình quân sự đã làm cho phép họ biết chắc chắn khi nào bức thư được đọc. Điều đó cực kỳ quan trọng trong các tổ chức chỉ huy và điều khiển,” David Ascher, giám đốc bộ phận thư điện tử của Mozilla cho biết.


      Nhờ thế, Thunderbird đủ tư cách tham gia vào hệ thống thư điện tử nội bộ của NATO và quân đội Pháp đã giới thiệu TrustedBird với NATO.


      Các nhà quân sự Pháp “đang giúp đỡ chúng tôi xây dựng một hệ thống các chuyên gia trên toàn cầu viết các phần mềm bổ xung (add-ons) chuyên biệt, nâng tầm nền tảng của chúng tôi thỏa mãn các yêu cầu của người dùng” Ascher cho biết.


      Kết quả là có một phần mềm thư điện tử tương thích với Yahoo Mail, GMail và các hệ thống thư điện tử khác và cạnh tranh được với Microsoft Outlook.


      Một số nhà quan sát cho rằng quyết định chuyển sang phần mềm nguồn mở góp phần cho công chúng Pháp thấy rằng chính phủ đang tìm cách tiết kiệm tiền ngân sách. Nhưng nhiều chuyên gia phần mềm nói phần mềm tự do cũng có chi phí của nó và nước Pháp biết điều đó.


      “Không bao giờ có sự miễn phí hoàn toàn,” đại tá Bruno Poirier-Countansais trong nhóm công nghệ thông tin của Cảnh sát Pháp nói.


      Phần mềm mới yêu cầu phải đào tạo lại các chuyên gia tin học và các công chức cũng phải học cách sử dụng.


      Poirier-Coutansais nói ban đầu có sự miễn cưỡng chấp nhận Thunderbird “vì cảm giác thiếu tin tưởng khi không có một công ty nổi tiếng hỗ trợ.”


      Microsoft có đội ngũ kỹ thuật viên hùng hậu ở Pháp trong một tòa nhà kính hiện đại gắn biểu tượng của công ty ở khu kinh doanh ngoại ô phía tây thủ đô, trong khi đó Mozilla chỉ có 10 nhân viên tại một tòa nhà chung cư xám xịt vô danh, cách xa khu doanh nghiệp của Pari.


      Tuy thế, chính phủ Pháp hiện nay đang hài lòng với kết quả thu được. Suel nói rằng họ có thể mở rộng ra ngoài phạm vi chính phủ vì tính năng an ninh của TrustedBird làm cho nó “có thể chuyển cho các công ty quốc tế lớn.”


      Nhưng có một chuyên gia ít tin tưởng hơn vào điều đó.


      “Thị trường phần mềm chuyên nghiệp đang tỏ ra kháng cự nhiều hơn với phần mềm nguồn mở,” Bernard-Louis Roques, giám đốc điều hành của Truffle Capital IT, một quỹ đầu tư chuyên vào phần mềm cho biết.



      12/10/09

      Từ một bản chiến lược ICT bị lọt ra ngoài


      Từ một bản chiến lược ICT bị lọt ra ngoài.


      (Trên giấy tờ, Anh có vẻ là nước kiên quyết đưa PMNM vào ứng dụng nhất như đã nói ở đâyở đây. Tuy nhiên cuộc chiến vẫn đang tiếp tục).


      Chính phủ Anh (do đảng Lao động nắm giữ) đang chuẩn bị một bản chiến lược Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICT - Information and Communication Technologies) cho hệ thống quản lý nhà nước trong thế kỷ 21. Bản dự thảo chưa được công bố nhưng đã lọt ra ngoài. Đảng Bảo thủ đối lập nắm ngay lấy cơ hội, thành lập website “ Make IT better” kể tội các chính phủ của đảng Lao động tiêu tốn tiền vào các dự án IT thất bại và công bố dự thảo chiến lược nói trên để mọi người góp ý, demo cho một cách làm chính sách mới.


      Trong website trên, đảng Bảo thủ cho rằng: “ Từ năm 1997, các bộ trưởng của đảng Lao động đã tiêu xấp xỉ 100 nghìn tỷ bảng Anh (nguyên văn £100 billion, 1 billion ở Mỹ là 10 9 - một tỷ, ở Anh là 10 12 - một nghìn tỷ, không hiểu ở đây dùng theo nghĩa nào?) vào các dự án tin học, nhiều hơn bất kỳ nước châu Âu nào khác. Một nghiên cứu gần đây kết luận rằng 70% các dự án tin học là thất bại - nghĩa là hàng chục nghìn tỷ bảng Anh lãng phí vào các hệ thống từ siêu máy tính NHS 20 nghìn tỷ tai họa cho đến hệ thống Home Office được quản lý rất tồi.


      Chúng tôi (đảng Bảo thủ) nghĩ có một cách tốt hơn. Không những có thể xây dựng một tầm nhìn về tin học quản lý nhà nước đổi mới hơn, nhiều tham vọng hơn và hiệu quả hơn, chúng tôi còn cho rằng có thể theo đuổi một cách làm chính sách hoàn toàn khác. Thay cho cách làm chính sách đóng kín (trong nội bộ chính phủ) mà bản báo cáo chiến lược này là một điển hình, chúng tôi muốn công khai hóa quá trình làm chính sách, cho phép mọi người đóng góp ý kiến chính sách nên như thế nào. Trong thời kỳ hậu-quan liêu hiện nay, chúng tôi tin rằng việc nhiều người tham gia hợp tác thiết kế sẽ giúp chúng tôi làm ra những chính sách tốt hơn - và điều đó nên được bắt đầu ngay từ bây giờ.


      Chính vì vậy mà trên website trên, đảng Bảo thủ công bố toàn văn dự thảo chiến lược ICT của đảng Lao động để “ chúng tôi muốn nghe ý kiến của các bạn và chúng tôi sẽ trả lời vài tuần sau đó”.


      Về mặt này (phương pháp làm chính sách mở), tư bản Anh già cỗi có vẻ chậm hơn “con rồng châu Á” Việt nam. Nghị quyết 71/2006/QH11 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 đều đã quy định phải đăng các dự thảo văn bản pháp luật lên website chính phủ để mọi người góp ý. Mặc dù có những chập chững khôi hài kiểu thế này, nhưng cũng có những cái như thế này đáng để xem.


      Đây chính là kiểu "chính trị nguồn mở" đã nói trong bài này.


      Dự thảo chiến lược nhận xét về tình hình hiện tại: “ Năm 2004, Chính phủ đã chính thức tuyên bố sẽ dùng phần mềm nguồn mở (PMNM) cho những dịch vụ hành chính công khi chúng có hiệu quả nhất (it gave the best value for money). Tuy nhiên có nhiều rào cản cho việc ứng dụng rộng rãi PMNM. PMNM và thị trường IT của nó còn chưa đủ độ chín, không có các sản phẩm đủ cạnh tranh để dễ dàng đưa vào các giải pháp tin học quản lý tổ chức.


      Các nhà cung cấp phần mềm thương mại (COTS - commercial of-the-shelf) thường không rõ ràng về hệ thống cung cấp và các điều khoản khi ký hợp đồng với Chính phủ và từ chối xem Chính phủ như một thực thể duy nhất (ví dụ: mỗi bộ là một khách hàng riêng biệt, giá tính như với một khách hàng mới và phần mềm không thể đưa từ bộ này sang bộ khác ). Điều đó làm cho việc so sánh với PMNM rất khó khăn. Ngoài ra, các cán bộ IT của Chính phủ có kỹ năng giới hạn (chỉ quen Windows chẳng hạn ) và thói quen tránh rủi ro (khi quyết định dùng PMNM lạ lẫm ) đã hạn chế việc chấp nhận PMNM và không tạo ra thách thức cho các nhà cung cấp về giải pháp công nghệ.”


      Để khắc phục những điều nói trên, chiến lược mới chủ trương: “ Chiến lược về Phần mềm Nguồn mở, Chuẩn mở và Tái sử dụng đã được công bố tháng 2/2009. Nó nói rằng Chính phủ sẽ tích cực và nghiêm chỉnh xem xét các giải pháp nguồn mở cùng với các giải pháp nguồn đóng khi quyết định trang bị phần mềm. Ngoài ra, trong những trường hợp có thể, Chính phủ sẽ tránh để bị trói buộc vào các phần mềm nguồn đóng. Đặc biệt, sẽ tính đến các chi phí từ bỏ phần mềm, mời thầu lại và xây dựng lại ứng dụng trong các quyết định mua phần mềm và sẽ yêu cầu các nhà thầu chào những phần mềm thương mại nêu rõ nếu đang dùng mà thôi không dùng nữa thì phải làm thế nào.


      Chiến lược bao gồm một kế hoạch hành động là một chương trình tích cực đảm bảo một sân chơi bình đẳng giữa PMNM và phần mềm thương mại. Nó cũng bao gồm những hành động đảm bảo là Chính phủ sẽ sử dụng các chuẩn mở trong các tiêu chuẩn kỹ thuật mua sắm và sẽ yêu cầu các giải pháp tuân theo chuẩn mở. Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ dùng các chuẩn văn bản mở như ODF, PDF và OOXML. Trong đám mây điện toán Chính phủ (G-Cloud) sẽ có kho các ứng dụng quản lý nhà nước (Government Application Store, G-AS), kho này lưu các mã nguồn mở và các giải pháp đang dùng để có thể dùng lại cho toàn bộ hệ thống quản lý nhà nước.


      Tất cả những điều nói trên mới chỉ trên lời nói. Có lẽ phải khoảng 5 năm nữa mới biết được thực tế như thế nào. Tuy nhiên nó cũng khẳng định một điều: xu thế dùng PMNM là không cưỡng lại được . Đối với nước ta, ứng dụng tin học còn thô sơ, năng suất lao động thấp, nhịp độ công việc chậm, đây là thời cơ ứng dụng PMNM càng sớm càng tốt. Nếu để chậm, cái giá phải trả sẽ lớn hơn rất nhiều.




      12/9/09

      Malware trốn trong Screensaver tải về từ Gnome-Look.org


      Malware trốn trong Screensaver tải về từ


      Gnome-Look.org


      Malware Hidden Inside Screensaver On Gnome-Look


      Tuesday, December 08, 2009


      Trên diễn đàn Ubuntu vừa thông báo phát hiện trong gói .deb cài đặt screensaver “WaterFall” tải về từ site gnome-look.org có một malware.


      Khi cài gói trên, một script được cài vào máy và thực hiện tấn công DDoS bằng cách ping đến một địa chỉ định trước. Script này cũng có thể tự cập nhật bằng cách tự tải bản mới từ Internet.


      Gói cài đặt nói trên đã được xóa khỏi site gnome-look.org. Mặc dù malware này khá thô sơ nhưng cũng là một cảnh báo để mọi người lưu ý khi tải các phần mềm từ Internet tại các địa chỉ không tin cậy.


      Khắc phục


      Nếu bạn đã tải hoặc cài gói nói trên, chạy lệnh sau từ terminal:
      ĐỪNG CHẠY LỆNH NÀY NẾU BẠN KHÔNG CÀI GÓI DEB NÓI TRÊN.


      sudo rm -f /usr/bin/Auto.bash /usr/bin/run.bash /etc/profile.d/gnome.sh index.php run.bash && sudo dpkg -r app5552


      Chi tiết xem thêm tại đây.



      12/4/09

      Multimedia trong Linux


      Hệ thống multimedia trong Linux.


      Multimedia trong Linux khá rắc rối. Bài này ghi lại vài khái niệm tìm hiểu được để đỡ lúng túng khi sử dụng.



      I. Một vài khái niệm


      Multimedia là từ chung để chỉ các dạng dữ liệu: văn bản (text), âm thanh (audio), ảnh tĩnh (still image), hoạt hình (animation) và phim (video).


      Các dữ liệu audio, video được tạo ra (bằng máy ảnh, máy quay video) hoặc được chơi lại (playback, bằng loa, đèn hình TV hay màn hình máy tính) dưới dạng các sóng điện tử liên tục. Các sóng đó phải được chuyển thành dữ liệu số ( encoder, mã hóa: từ sóng thành các dãy số 0,1) rồi nén hoặc không nén để có thể lưu trữ, biên tập, truyền đi trên máy tính. Khi encoder, dữ liệu có thể để nguyên (lossless, không mất) hoặc bỏ đi các phần thừa mà con người không cảm nhận được để giảm dung lượng dữ liệu tiện cho lưu trữ hoặc truyền trên mạng (lossy, có mất dữ liệu).


      Để con người có thể thưởng thức được (nghe, xem), các dữ liệu số multimedia nói trên lại được chuyển đổi ngược lại từ các dãy số 0,1 thành sóng điện từ làm kêu loa hoặc vẽ hình lên màn hình. Quá trình chuyển đổi ngược đó gọi là decoder, giải mã.


      Một bài hát, khi ghi vào băng từ hoặc đĩa than vẫn ở dạng các sóng âm, khi ghi thành file MP3 là đã được mã hóa sang dạng số. Tương tự, một bức ảnh chụp lên phim được lưu dưới dạng các phổ màu liên tục, khi lưu thành file JPEG, PNG, ... là đã mã hóa sang dạng số.


      Codec (viết tắt của en coder/ decoder)là các phần mềm/thuật toán/công nghệ dùng để mã và giải mã (có nén hoặc không) dữ liệu multimedia như nói trên.


      hàng nghìn codec nhằm vào các mục tiêu khác nhau: codec cho điện thoại phải có độ trễ thấp, chất lượng âm không cần cao; ngược lại, codec để chơi nhạc chất lượng âm phải cao nhưng độ trễ không quan trọng, v.v....


      Multimedia Format: sau khi mã hóa, dữ liệu multimedia được lưu thành các file có định dạng (format) khác nhau. Một file ảnh có thể lưu dưới dạng file jpg, png, bmp, ... Một đoạn phim thường gồm ba loại dữ liệu: video, audio và metadata để đồng bộ hình với tiếng. Ba loại dữ liệu đó được lưu chung trong một loại format gọi là media container format (ví dụ avi). Nhiều loại codec khác nhau có thể lưu file cùng một format avi, tất nhiên là chất lượng phim tùy theo codec.


      Một vài codec và format chính (có hàng nghìn codec và hàng trăm format):


      Microsoft: Microsoft có hai hệ codec phổ biến là Windows Media Audio (WMA) và Windows Media Video (WMV). Mỗi hệ gồm một số codec. Các file được mã hóa bằng hai codec trên được lưu theo media container format ASF (Advanced System Format). Tuy nhiên phần đuôi file (extension) thì tùy: file audio có đuôi là .wma, file video: .wmv nhưng nếu muốn cả hai loại file trên có thể có đuôi là .asf.


      Microsoft còn có một container format cổ hơn là AVI (Audio Video Interleave), đuôi file .avi. Cả hai loại format ASF và AVI có thể chứa được nhiều loại codec khác, không bắt buộc phải là WMA và WMV.


      MPEG: là tên tắt của Nhóm chuyên gia về ảnh động (Moving Picture Experts Group) chuyên thiết lập các chuẩn ISO về nén và truyền audio, video. MPEG-1 là chuẩn đầu tiên trong đó có MPEG-1 Audio Layer 3 ( MP3) vẫn còn rất phổ biến hiện nay. MP4 (viết tắt của MPEG-4 Part14) là một loại media container format, đuôi file cũng là .mp4.


      DivX: DivX codec nổi tiếng vì có khả năng nén các file video lớn xuống dung lượng thấp nhưng vẫn giữ được chất lượng hình khá. Từ DivX 6 có thêm một media container format DivX Media Format (DMF), đuôi file là .divx, dành cho DVD-Video.


      RealAudio/RealVideo: là các format của công ty RealNetwork cho file audio và video. Mỗi format này có thể dùng các codec khác nhau. Đuôi file tương ứng là .ra và .rv. Ngoài ra còn có một format tổ hợp cho cả audio và video gọi là Real Media Format có đuôi file là .rm. Các file .ram và .smil dùng cho các link từ website để chạy các file tải về từ Internet (streaming).


      FFmpeg: là một dự án nguồn mở xây dựng các phần mềm và thư viện để ghi, chuyển đổi và truyền dẫn audio/video. Thư viện libavcodec cung cấp codec cho hàng chục loại format audio/video khác nhau.


      Ogg: là media container format nguồn mở dành cho audio/video chất lượng cao. Trong đó, Ogg Theora là video codec, Ogg Vorbis là audio codec. Trước đây, file .ogg gồm cả audio và/hoặc video. Từ 2007, file .ogg chỉ còn là file audio, file .oga là file audio, file .ogv là file video.


      Flash Video: là một media container format dùng chơi video trên các trang web bằng Adobe Flash Player. Có hai format là FLV và F4V, trong đó F4V mới hơn tuân theo chuẩn ISO. Đuôi file .f4v dành cho file video mp4, đuôi .f4a dành cho audio mp4. Nội dung trong file có thể dùng các codec khác nhau: H264, mp3, …


      Adobe còn một format nữa là SWF (đuôi file .swf ) chuyên dùng cho đồ họa vector động trên web.



      II. ALSA


      ALSA (Advanced Linux Sound Architecture) là một hệ thống con của nhân Linux gồm các driver cho sound card và dụng cụ nhạc điện tử (MIDI), các thư viện để lập trình giao tiếp với các thiết bị nói trên và một số công cụ cần thiết (mixer,...). Hiểu đơn giản ALSA tức là driver cho sound card.


      Các driver đều dưới dạng module để có thể nạp khi cần. ALSA hiện nay thay thế cho hệ thống cũ OSS (Open Sound System) nhưng vẫn tương thích với các phần mềm OSS. OSS cũng là giao diện với các soundcard nhưng có nhiều hạn chế nên bị thay thế.


      Ví dụ trong Mandriva, khi mở Control Center > Hardware > Sound Configuration, ta thấy màn hình sau:


      Sound card đang dùng là Intel 82801G, driver là snd_hda_intel.



      III. Sound Server


      Nếu sử dụng âm thanh đơn giản thì chỉ cần sound driver (alsa, oss, …) là đủ. Nhưng trong những trường hợp phức tạp hơn thì phải có hẳn một máy chủ âm thanh Sound Server trong hệ điều hành làm các nhiệm vụ sau:





      • Nhận các luồng âm thanh từ nhiều nguồn khác nhau (micro hoặc các phần mềm chơi nhạc, phát âm, ...).




      • Chuyển các luồng âm đó đến các thiết bị phát âm (các sound card trên máy, các sound server trên các máy khác trên mạng để phát âm tại đó,...).




      • Thực hiện một số chức năng khác mà sound driver không có.




      (còn tiếp)







      /home/zxc/DATA/Mydocuments/Dropbox/Bai viet blog/Hệ thống multimedia trong Linux.odt Page4of4