10/4/09

Vài ấn tượng ban đầu với Mandriva 2010.0 KDE RC1 và Kubuntu 9.10 Beta

Cuối tháng 10 hai bản Linux mà tôi quan tâm sẽ ra đời phiên bản mới: Ubuntu 9.10 và Mandriva 2010.0. Sau đó ít lâu sẽ là các bản Linux Mint 8 (dựa trên Ubuntu) và PCLinuxOS 2010 (dựa trên Mandriva).
Mandriva 2010.0 RC1: hiện đã có bản RC1, đến 3/11 là bản chính thức.


  • Cài đặt trơn tru, không gặp trục trặc gì về nhận biết phần cứng (đã cài thử trên vài máy).

  • Dùng các phần mềm mới nhất: kernel 2.6.31, KDE 4.3, OpenOffice 3.1, Firefox 3.5.3. Đặc biệt, làm việc tốt với card màn hình Intel, không bị lỗi như bản 2009.1. KDE 4.3 đẹp, chạy nhanh, và nhiều tính năng hơn bản 4.2. KDE4 hiện có vẻ đã đủ độ chín.

  • Kernel 2.6.31 đã hỗ trợ chuẩn USB 3.0 tốc độ 5Gbits/s nhanh hơn 10 lần USB 2.0 hiện nay. Thiết bị hình như cũng đã bắt đầu có. Hiện tại, Linux là hệ điều hành đầu tiên hỗ trợ chuẩn này.

  • Gõ tiếng Việt tốt với scim-unikey 0.3.1 nhưng cài scim thì hơi trục trặc, không trơn tru như các bản Mandriva cũ. Hy vọng lỗi này sẽ hết trong bản chính thức.

  • Từ bản 2009.1, Mandriva có chế độ ghi file iso vào USB để cài, không cần burn vào đĩa CD nữa. Download file mandriva-seeds.sh tại đây (ở cuối danh sách), sau đó chạy file trong terminal và theo hướng dẫn. Khi cài chọn chế độ boot từ USB.

  • Vẫn như cũ, Mandriva ưu tiên cho các phần mềm khác đưa vào file cài đặt, nên muốn cài máy in phải tải về khoảng 280MB phần mềm nữa.

  • Dùng thử khoảng 1 tuần, chạy khá ổn, nhưng không nhận được máy in Canon 1210 (các đời trước nhận ngon kể cả khi chưa có driver CAPT).



Kubuntu 9.10 Beta:


  • Trình cài đặt mới, đẹp hơn và dễ nhìn các partition hơn bản cũ.

  • Cũng dùng các phần mềm mới nhất KDE 4.3.1, OpenOffice 3.1.1. Riêng trình duyệt mặc định vẫn là Konqueror, nhưng có thể cài thêm Firefox. KDE4.3 chạy khá nhuyễn không như các bản Kubuntu trước. Đặc biệt có sẵn một số Plasma Widget kết nối với Google Calendar, Flick, Facbook, Twitter,...

  • Tích hợp với bộ công cụ GTK+ nên các ứng dụng GNOME có giao diện giống KDE hơn và tùy biến được.

  • Thử cài trên notebook được, nhưng trên hai máy để bàn thì thua: một máy không boot được vào chế độ LiveCD, một máy thì ngừng ở chổ copy package list. Hai máy này cài Mandriva 2010.0 RC1 đều được. Để khi có bản chính thức thử lại xem sao.

9/29/09

Chăm sóc ổ cứng trong Linux

1- Xem thông tin ổ cứng:
Dùng quyền root chạy lệnh lshw trong terminal cho thông tin đầy đủ nhất: trong máy có bao nhiêu ổ, thông số từng cái, mỗi ổ có bao nhiêu patition (trong lệnh này, các partition được gọi là volume), ... Tuy nhiên, giao diện dòng lệnh hơi khó xem.
Trong Mandriva Control Center có phần Hardware, nhưng thông tin về ổ cứng không chi tiết đến mức từng partition như lệnh lshw. Phải vào mục Local disk mới có thông tin chi tiết về các partition dưới dạng đồ họa, trực quan.
Trong Ubuntu có thể cài gparted ( chạy từ Administration → Partition Manager) để xem thông tin về các partition.(và làm các việc khác nữa xem phần dưới)

Ký hiệu hay dùng nhất của các partition thường là /dev/sda1, /dev/sda2, …. Nếu có một ổ cứng thứ hai thì các partition trên đó là /dev/sdb1, ….
2- Tạo mới, xóa, sửa dung lượng, di chuyển, format các partition:
Trong Mandriva có sẵn công cụ để làm các việc trên (Mandriva Control Center -> Local disk). Tuy nhiên, công cụ đầy đủ và mạnh nhất để làm các việc trên là gparted (cài được cả trong GNOME và KDE). Có những việc (format, move partition, …) Mandriva Control Center không làm được nhưng gparted làm được. Linux Mint có cài sẵn gparted, Ubuntu hình như là không, phải tự cài.
Trong Linux cũng có các lệnh fdisksfdisk như của DOS nhưng không thật thành thạo thì không nên dùng.
3- Mount và umount các partition:
Mandriva Control Center -> Local disk cho phép xem các partion đã mount vào thư mục nào, thay đổi thư mục mount, mount tạm thời để xem nội dung (không ghi vào file fstab), mount tự động khi khởi động máy tính (ghi thành lệnh vào file /etc/fstab). Tóm lại là đầy đủ cho việc mount, umount các partition.
Ubuntu không có công cụ tương tự. Gparted có thể umount nhưng không mount được. Tuy nhiên có thể cài phần mềm pysdm (có trong kho phần mềm) để quản lý việc mount và umount (ghi được vào file fstab) tuy không trực quan bằng Mandriva. Sau khi cài, phần mềm này xuất hiện trong nhóm menu Administration với tên là Storage Device Manager.
CHÚ Ý: các partition Windows (ntfs, fat?) khi chạy trong Windows không shutdown mềm (mất điện bất thình lình, tắt máy cưỡng bức bằng cách giữ nút Power) sẽ bị đánh dấu là “dirty”, Linux sẽ không mount các partition dirty đó. Vì vậy:

  • Nếu chạy chung Windows và Linux trên một máy, khi thấy hiện tượng Linux không mount được các partition Windows thì phải khởi động lại Windows, rồi shutdown mềm (bằng lệnh shutdown trong menu). Sau đó khởi động vào Linux mới mount được.

  • Nếu dùng ổ cứng ngoài format NTFS nối vào Windows cũng phải shutdown mềm rồi mới tháo ổ. Nếu không, cắm ổ đó sang Linux sẽ không mount được.


4- Kiểm tra và theo dõi sức khỏe ổ bằng SMART.
Công nghệ S.M.A.R.T (Self-Monitoring, Analysis, and Reporting Technology - tự theo dõi, phân tích và báo cáo) là công nghệ theo dõi khoảng vài chục chỉ số để dự đoán trước các hư hỏng vật lý có thể có của ổ cứng. Các ổ cứng hiện nay đều hỗ trợ công nghệ này và để sử dụng trước hết nó phải được kích hoạt từ BIOS Setup.
Phần mềm Linux hỗ trợ công nghệ này là GsmartControl cài từ kho phần mềm hoặc tải về từ đây. Trước đó cần cài các gói phần mềm smartmontools có trong kho phần mềm. Vì smartmontools gửi các cảnh báo đi bằng email nên khi cài, nó yêu cầu cài thêm một số phần mềm gửi email như mailx, postfix (chỉ một cũng đủ không hiểu sao lại yêu cầu cài cả ba).

smartcontrol


GsmartControl cho phép kích hoạt SMART, test ổ cứng theo hai chế độ: Short self-test và Extended self-test, đưa ra báo cáo chi tiết.
Muốn chạy trình thường trú (daemon) để theo dõi ổ xem ở đây.

5- Kiểm tra, sửa lỗi “phần mềm” của ổ cứng.

SMART nói ở trên theo dõi các lỗi vật lý của ổ cứng. Các lỗi thuộc về phần mềm (boot sector, master boot record, bảng partition, …) dùng các công cụ khác để kiểm tra và khắc phục.
Kiểm tra tính tương thích của hệ thống file:
Trong Windows có các lệnh scandiskchkdsk để kiểm tra lỗi không tương thích của hệ thống file trên ổ cứng. Lệnh tương tự trong Linux là fsck (file system check).
fsck được đặt lịch tự động chạy kiểm tra các partition sau 25-30 lần mount (thường là bằng với số lần khởi động máy tính). Vì vậy thỉnh thoảng ta thấy Linux khởi động lâu hơn thường lệ là do fsck đang làm việc.
Khi Linux khởi động, nếu nó nghi ngờ partition nào có vấn đề, fsck cũng được tự động chạy để kiểm tra.
Người dùng có thể chạy fsck để kiểm tra như sau:

  • Khởi động máy tính bằng một đĩa cài Linux có chế độ Live CD (bản Linux nào cũng được, không nhất thiết phải cùng với bản đang cài trên ổ cứng).

  • Trong chế độ chạy Linux Live CD, mở terminal rồi chạy lệnh
    fsck -y -p -c /dev/sda3
    trong đó /dev/sda3 là partition cần kiểm tra (hoặc sda2, sda5, … tùy theo tình hình cụ thể của ổ cứng), -y là đồng ý với mọi câu hỏi mà lệnh có thể hỏi, -p: tự động sửa lỗi, -c: kiểm tra và đánh dấu các bad blocks. Còn nhiều option khác, gõ lệnh man fsck để xem.


Cập nhật: cũng có thể kiểm tra bằng trình gparted. Mở gparted, nhấn phím phải chuột vào partition cần kiểm tra (nếu partition đang mount thì umount trước) rồi chọn Check. Nếu cần kiểm tra partition cài Linux (đã mount vào /) thì boot máy bằng đĩa Linux có gparted, chạy gparted rồi kiểm tra.

Chú ý: không được kiểm tra các partition đang mount, hỏng dữ liệu.

Kiểm tra, sửa chữa các thứ khác:

  • Chữa bảng partitions bị hỏng, khôi phục các partitions bị mất.

  • Khôi phục lại boot sector của FAT32/NTFS từ bản backup.

  • Tạo lại (rebuild) boot sector FAT12/FAT16/FAT32/NTFS.

  • Chữa bảng FAT bị hỏng.

  • Chữa Master File Table (MFT) từ bản mirror.

  • Tìm các SuperBlock backup của ext2/ext3.

  • Khôi phục các file bị xoá ở các partitions FAT, NTFS và ext2.

  • Copy file từ các partitions FAT, NTFS, ext2/ext3 đã bị xoá.


dùng công cụ teskdisk như đã giới thiệu ở đây.

Undelete file đã xóa trong ext3

Có người thì khẳng định là hệ thống file ext3 không undelete được, người thì lại nói được.

Có một dự án đang xây dựng một công cụ undelete cho hệ thống file ext3 là ext3grep nhưng cách làm khá phức tạp, xem chi tiết tại đây.

Một công cụ khác (R-Linux) để undelete các file ext2/ext3/ext4 nhưng chạy trên Windows xem tại đây.  là một phần mềm khác chạy trên Windows cũng khôi phục được các file ext2/ext3/ext4 bị xóa.

Các công cụ này tôi cũng chưa dùng bao giờ.

Khôi phục boot menu bị mất (ví dụ sau khi cài lại Windows) theo cách đã nêu ở đây.

9/28/09

Tự động đổi ảnh nền màn hình trong GNOME

Trong KDE đã có sẵn các chế độ ảnh nền màn hình (wallpaper): a/ Ảnh tĩnh (chỉ chọn một ảnh cố định), b/Ảnh động dưới dạng slideshow (tự động thay ảnh trong các thư mục chọn trước sau một khoảng thời gian nào đó). Nhấn phím phải chuột vào desktop, chọn Desktop Settings để đặt các chế độ trên. KDE 4.2 trở xuống có thời gian tối thiểu thay ảnh là 1 phút, KDE 4.3 cho phép chọn nhỏ hơn đến mức giây.

Trong GNOME, mặc định chỉ có chế độ ảnh tĩnh: nhấn phím phải chuột vào desktop, chọn Change Desktop Background rồi chọn ảnh. Tuy nhiên có thể cài thêm một trong hai phần mềm sau (có sẵn trong kho phần mềm) để chạy ảnh theo chế độ slideshow:

  • Drapes: sau khi cài, chạy từ dòng lệnh hoặc menu, một icon hình màn hình sẽ xuất hiện trên System Tray của panel. Nhấn phim phải chuột vào đó, rồi nhấn Preferences để đặt các settings: cho tự khởi động cùng máy tính, chọn khoảng thời gian thay ảnh (min là 5 phút), chọn thư mục có ảnh. Nhược điểm là thông số min=5 phút nói trên, hơi lâu. Nếu muốn chủ động đổi ảnh thì nhấn chuột vào biểu tượng nói trên.

  • Wallpaper-tray: sau khi cài, nhấn phím phải chuột vào panel, chọn add to panel rồi tìm wallpaper tray trong danh sách để add, biểu tượng sẽ xuất hiện trên panel. Công cụ này cho phép add các folder chứa ảnh nền tiện hơn cái trên và thời gian chuyển ảnh ngắn hơn (min=1phút, thậm chí có thể đặt min=0,5 phút chẳng hạn). Nhược điểm là sau khi đặt các settings rồi, nhiều khi không thể gọi lại màn hình để sửa và cũng không biết file cấu hình nằm đâu. Tôi chót đặt min=0,1 phút, ảnh thay rất nhanh nhưng tốn CPU mà không tim được cách nào để chỉnh lại.

9/22/09

Mã độc nguồn mở!

Why malware writers are turning to open source



Nick Heath - 2009/09/21 11:19:02

Những kẻ viết mã độc (malware) đang nguồn mở hóa sản phẩm của mình để cải tiến nó tốt hơn.

Bằng cách cho người khác truy cập tự do vào mã nguồn của các loại mã độc (malware) chuyên ăn trộm thông tin cá nhân và thông tin tài chính, các tác giả của những mã độc đó hy vọng sẽ mở rộng được tính năng của nó so với các loại trojan thông thường.

Theo Candid Wuest, nhà nghiên cứu của Symantec, khoảng 10% thị trường trojan hiện nay được nguồn mở hóa. Việc chuyển sang mô hình nguồn mở cho phép các kẻ tội phạm bổ xung được tính năng cho các mã độc của chúng.

"Ưu điểm là có nhiều người tham gia vào phát triển một mã độc hơn là chỉ có tác giả, nếu người đó chuyên về mã hóa, họ sẽ bổ xung tính năng mã hóa (để tránh bị các chương trình diệt virus phát hiện), kẻ chuyên về video streaming có thể bổ xung tính năng streaming từ xa," Wuest nói.

Việc nguồn mở hóa các trojan bắt đầu từ năm 1999 khi nhóm Dead Cow công bố mã nguồn của trojan Back Orifice. Gần đây, những tác giả của Limbo Trojan cũng công bố mã nguồn để đẩy nhanh việc sử dụng nó bởi những kẻ lừa đảo trên mạng.

Sau khi ra đời năm 2007, Limbo Trojan trở thành trojan được sử dụng rộng rãi nhất thế giới nhưng tới năm 2008 thì mất ngôi vị đó sau khi Zeus Trojan tinh vi hơn xuất hiện. Trở thành trojan thống trị trên thị trường đem lại cho tác giả của chúng rất nhiều tiền: các máy bị nhiễm và các thông tin cá nhân, tài chính mà trojan đánh cắp được trị giá hàng triệu đô la trên thị trường đen. Limbo Trojan trước đây được bán cho những kẻ lừa đảo trên mạng với giá 350USD, trong khi Zeus Trojan hiện nay có giá từ 1000 đến 3000USD.

Tuy nhiên người đứng đầu bộ phận công nghệ mới của hãng an ninh mạng RSA là Uri Rivner cho biết việc nguồn mở hóa không cứu vãn được vị trí suy đồi của Limbo Trojan.

"Chúng chuyển sang mô hình kinh doanh hệt như các dự án phần mềm nguồn mở khác: cho không phiên bản cơ bản, bán phiên bản tiên tiến hơn hoặc dịch vụ hỗ trợ chuyên nghiệp hoặc dịch vụ cá biệt hóa theo yêu cầu khách hàng. Lúc mới nguồn mở hóa thì đó là tin nóng, nhưng từ đó "khách hàng" ngừng mua nó. Nó không còn là trojan tốt nhất nữa, nhưng vì nó là phần mềm nguồn mở nên những kẻ tội phạm trên mạng có thể thử dùng nó như công cụ đầu tay"

Tính phổ biến của Limbo tiếp tục giảm mặc dù có nhiều tính năng mới được bổ xung cho phép kẻ tội phạm có thể thêm các trường phụ vào mã PIN để đánh lừa các website của ngân hàng, thu thập danh sách các phím đã gõ và các file đã lưu trên máy tính bị nhiễm trojan.

Và trong khi việc nguồn mở hóa không mang lại may mắn cho Limbo, nó còn tạo ra thêm vấn đề cho những kẻ lừa đảo trên mạng: các công ty an ninh mạng cũng có mã nguồn của nó.

Đại đa số trojan lây nhiễm bằng con đường download: nó tự động được tải về máy khi bạn mở một website đã nhiễm độc, hoặc một thông báo của một mạng xã hội thúc dục mọi người tải về một bản cập nhật an ninh nhưng thực ra đó là một trojan.
Các phương pháp lây nhiễm đó tỏ ra hiệu quả hơn các kỹ thuật trước đây như gửi một email có link đến file đã nhiễm hoặc có file đính kèm chứa trojan.
Các nhà phân tích của RSA nói phương pháp mới đã tăng số lần lây nhiễm theo cấp số nhân: tháng 8/2008 hãng chỉ phát hiện được 613 lần lây nhiễm, tháng 8/2009 là 19.102

9/21/09

Thiết kế kiến trúc hệ thống mở

Đọc hai bài báo gần đây (bài 1bài 2) cũng thấy mừng cho ngành Công nghệ Thông tin nước nhà bắt đầu đi vào nề nếp. Đây cũng là vấn đề tôi ấp ủ nhưng chưa làm được, xả ra trên blog vậy.

Cách đây khoảng 3 năm, đặt vấn đề với FIS về “Thiết kế kiến trúc hệ thống” theo một framework có sẵn còn thấy ngơ ngác, đưa cho cái link TOGAF thì tấm tắc khen hay. Vậy mà bây giờ đã có người đỗ chứng chỉ! Tuy nhiên đây là một công việc khá khó, khối lượng lớn, một người e rằng quá ít.

Ngay cả việc bộ Ngoại giao giao cho Microsoft thiết kế kiến trúc chuẩn cũng là việc đáng bàn. Nhưng cái đó để sau.

Vậy thì “Kiến trúc hệ thống” tạm dịch từ “Enterprise Architecture” là cái gì?

Khi xây một cái nhà, bước đầu tiên là thiết kế kiến trúc (nếu cả một khu nhà lớn thì trước đó còn có cả quy hoạch nữa). Thiết kế kiến trúc xong mới đến thiết kế xây dựng, thiết kế thi công và thiết kế hoàn công nữa.

Xây một hệ thống thông tin lớn cũng vậy. Kiến trúc của một tổ chức được định nghĩa theo ISO/IEC 42010:2007 là:

“Tổ chức cơ bản của một hệ thống thể hiện trong các bộ phận cấu thành, quan hệ giữa các bộ phận với nhau và với môi trường ngoài và trong các nguyên tắc chỉ đạo việc thiết kế và phát triển các bộ phận đó”


"The fundamental organization of a system, embodied in its components, their relationships to each other and the environment, and the principles governing its design and evolution."


Kiến trúc hệ thống đại thể có các hạng mục lớn sau:


  1. Kiến trúc nghiệp vụ (Business Architecture): xác định chiến lược hoạt động của tổ chức, cách quản lý, hệ thống tổ chức và các hoạt động nghiệp vụ chính.

  2. Kiến trúc ứng dụng (Application Architecture): là bản thiết kế (đến mức nào?) các ứng dụng, tương tác giữa chúng với nhau và quan hệ của chúng với các hoạt động nghiệp vụ chính của tổ chức.

  3. Kiến trúc dữ liệu (Data Architecture): mô tả cấu trúc các kho dữ liệu logic và vật lý của tổ chức và các tài nguyên dùng quản lý dữ liệu.

  4. Kiến trúc công nghệ (Technology Architecture): mô tả hạ tầng phần mềm để khai triển các ứng dụng quan trọng, cốt lõi của hệ thống.



Mục 1 là trách nhiệm các nhà lãnh đạo, mục 2 và 3 có khi được gọi chung là Kiến trúc hệ thống thông tin (Information System Architecture).

Khối lượng công việc thiết kế như trên rất lớn và rất phức tạp. Vì vậy cần phải có một quy trình thiết kế tiêu chuẩn và vô số công cụ hỗ trợ gọi chung là Phương pháp kiến trúc (Achitecture Framework).

Phương pháp kiến trúc là một công cụ dùng để phát triển các kiến trúc bao gồm:


  • một phương pháp thiết kế hệ thống thông tin gồm nhiều bộ phận có tương tác với nhau

  • một bộ các công cụ thiết kế và một từ điển thuật ngữ thống nhất.

  • một danh sách các tiêu chuẩn nên dùng

  • một danh sách các sản phẩm thoả mãn chuẩn có thể dùng để xây dựng nên các bộ phận của hệ thống thông tin.



Nói nôm na nó là bản hướng dẫn từng bước thiết kế kiến trúc như thế nào.

Cái framework này rất quan trọng để có được một thiết kế đúng, hợp lý, thống nhất chung cho toàn hệ thống. Vì vậy chính phủ một số nước cũng như các bộ quốc phòng Anh, Mỹ và thậm chí NATO đều ban hành framework chuẩn cho hệ thống của mình (xem thêm). Các công ty và các loại tổ chức khác thì có thể chọn một trong các frameworks phổ biến để áp dụng.

TOGAF (The Open Group Architecture Framework) là một framework do tổ chức Open Group xây dựng. Open Group là một consortium độc lập với công nghệ và nhà cung cấp có mục tiêu hỗ trợ truy cập thông tin tích hợp bên trong và giữa các tổ chức dựa trên các chuẩn mở và tính tương tác toàn cầu (The Open Group is a vendor- and technology-neutral consortium, whose vision of Boundaryless Information Flow™ will enable access to integrated information within and between enterprises based on open standards and global interoperability.) Thành viên của Open Group có các đại công ty như HP, IBM, HSBC, các trường, viện, và các tổ chức, cá nhân khác.

Phiên bản 1 của TOGAF ra đời năm 1995 trên cơ sở framework TAFIM của bộ quốc phòng Mỹ. Phiên bản 9 là mới nhất hiện nay. Tài liệu được công bố công khai trên mạng và có thể tải về dùng nội bộ miễn phí (dùng thương mại, thiết kế kiếm tiền thì phải trả tiền).

Mỗi bản TOGAF là một tài liệu dài cỡ 300 trang mô tả rất chi tiết các khái niệm, các bước thiết kế cụ thể, các tiêu chuẩn, form mẫu, các công cụ hỗ trợ. Xem thoáng qua thì rất hay và rất thích nhưng hiểu được thì … chết liền, mất khá nhiều thời gian và nơ ron thần kinh mà cũng chưa chắc đã hiểu, chưa nói đến ứng dụng!

Điểm hay của TOGAF là nó vô tư (độc lập với công nghệ và nhà cung cấp, dựa trên các chuẩn mở), tài liệu rất chi tiết, có diễn đàn hỗ trợ, nói tóm lại là nó mở. Ai đã từng làm thiết kế đều biết cửa ăn hoa hồng dễ nhất là trói thiết kế vào sản phẩm.

Bởi vậy, tôi mới thấy băn khoăn về cái thiết kế của bộ Ngoại giao. Có nên tin vào tính vô tư của Microsoft hay không?

9/17/09

Hãng phim DreamWorks dùng đám mây điện toán của Red Hat để giảm chi phí làm phim.

DreamWorks uses Red Hat cloud to cut filmmaking costs


spacer.gif By Pam Derringer, News Contributor
10 Sep 2009 | SearchEnterpriseLinux.com spacer.gif

zxc232 lược dịch



(Làm phim hoạt hình tốn công suất máy tính dễ sợ. Xem thêm về Hollywood dùng Linux tại đây)

Công ty phần mềm nguồn mở Red Hat đang thảo luận với hãng phim DreamWorks về việc dùng đám mây điện toán chạy trên Red Hat Linux để sản xuất bộ phim hoạt hình nổi, ba chiều đầu tiên trên thế giới trong năm nay.

Đám mây điện toán của Red Hat cùng với các phần mềm dựng phim mới nhất sẽ giúp dựng bộ phim hoạt hình “Cuộc chiến giữa các con quỷ và người ngoài hành tinh” có những cảnh hoàng tráng như cảnh sụp đổ của cầu treo Cổng Vàng tại San Francisco.

Các hiệu ứng đặc biệt sẽ làm cho dự án phim này tốn đến 40 triệu giờ công, chi phí gấp 8 lần bộ phim Shrek nổi tiếng và hoàn thành trong 2 năm.

Linh hoạt hơn.

Điện toán đám mây là yếu tố then chốt để làm phim nhanh hơn và hiệu quả hơn, cho phép DreamWorks có được năng lực máy tính phù hợp lúc ổn định cũng như lúc cao điểm, giảm yêu cầu nhân vi xử lý (core) từ 21.000 xuống 16.000. Điện toán đám mây cung cấp dịch vụ linh hoạt hơn các dàn máy chủ, cho phép chia nhỏ các đoạn phim gửi đồng thời cho 40 nhân xử lý, tự động hóa được một số công việc trước đây phải làm thủ công, giảm thời gian quay vòng từ 4 giờ xuống còn vài phút.

Ứng dụng ảo hóa trong đám mây điện toán cũng cho phép DreamWorks xử lý tách biệt các công việc, đo lường được mức độ sử dụng tài nguyên tính toán và kiểm tra được trạng thái từng việc, do đó giảm thời gian dựng phim.

Cơ sở máy tính của DreamWorks là một mạng lưới máy chủ xây dựng đã 10 năm gồm hơn 20.000 nhân vi xử lý phân bổ trong 4 trung tâm dữ liệu nối với nhau bằng hơn 20.000 km cáp đôi gigabit (trừ trung tâm đặt tại Bangalor, Ấn độ). Mặc dù vậy, DreamWorks luôn phải đối mặt với những “thách thức khó chịu” về thiếu băng thông và mật độ I/O cao khi chuyển dữ liệu vào ra mạng lưới điện toán của họ.

Red Hat đã giải quyết được các khó khăn đó bằng việc ảo hóa nhân hệ điều hành, quản lý ảo hóa, phối hợp các ứng dụng và tạo các lớp đám mây trừu tượng (kernel virtualization, virtualization management, the application orchestration and cloud abstraction layers).

9/15/09

Mô hình nguồn mở trong một số lĩnh vực ngoài phần mềm.

Gần đây có một số bài báo về hai sản phẩm mới: Thiết kế xe ôtô cho tương laiHệ điều hành nguồn mở cho máy ảnh. Nhưng ý tưởng chính đằng sau các sản phẩm đó chưa được rõ ràng.

Phong trào Phần mềm nguồn mở không chỉ liên quan đến phần mềm máy tính. Nó tạo nên một mô hình (hoặc triết lý, tư tưởng, nguyên tắc, phương pháp luận, …) nguồn mở chi phối ở các mức độ khác nhau toàn bộ quá trình thiết kế, xây dựng, phân phối một sản phẩm. Về đại thể, một sản phẩm nguồn mở là do một cộng đồng tự nguyện tham gia đóng góp xây dựng (một phần hay toàn bộ) và cho phép người khác tự do sử dụng phần đóng góp của mình.

Hiện tại, những sản phẩm nguồn mở thường là sản phẩm chất xám (phần mềm, thông tin, ….) hoặc là phần chất xám trong sản phẩm đó (ý tưởng, thiết kế, phần mềm điều khiển, …).

Sản phẩm nguồn mở có thể là (một số ví dụ và còn nữa):

  • Truyền thông nguồn mở: điển hình là phong trào viết blog hiện nay. Ngoài ra còn có các diễn đàn (forum), các bảng tin (messageboard). Tất cả thông tin của blog, diễn đàn, bảng tin đều do cộng đồng tự nguyện đóng góp và chia sẻ cho mọi người cùng sử dụng.

  • Tình báo nguồn mở (Open source intelligence): phương pháp tìm kiếm, chọn lọc, phân tích các nguồn tin công khai để tạo nên các nguồn tin tình báo có giá trị. Đây là một ngành tình báo quan trọng, có tổ chức chặt chẽ (xem thêm).

  • Chính trị nguồn mở (Open Politics): phương pháp tiến hành các hoạt động chính trị sử dụng các phương tiện Internet như blog, email, poll (thăm dò ý kiến) để tăng cường giao lưu giữa các tổ chức chính trị và đội ngũ quần chúng ủng hộ. Tổng thống Mỹ Obama đã sử dụng xuất sắc phương pháp này trong kỳ bầu cử vừa qua. Một biến thể khác là dùng các phương tiện trên để quần chúng tham gia rộng rãi vào quá trình xây dựng một chính sách.

  • Giáo dục nguồn mở: bộ giáo trình mở (OpenCourseWare) đồ sộ của học viện công nghệ Massachusetts đưa công khai, miễn phí lên mạng Internet và từ điển bách khoa Wikipedia là các ví dụ.

  • Văn hóa nguồn mở: ví dụ điển hình nhất là các bản dịch truyện của cộng đồng mạng Việt nam gần đây (Harry Porter, Tru tiên, ….) hoặc các website thư viện do cộng đồng người đọc bỏ công gõ truyện đóng góp (Vietnam Thư quán, Nhạn môn quan, …).

  • Sản phẩm nguồn mở: trong một post trước đã giới thiệu notebook nguồn mở: thiết kế của laptop OpenBook được công khai để mọi người tham gia góp ý, sửa và sử dụng. Hãng chế tạo điện thoại smartphone Openmoko còn nguồn mở hóa cả thiết kế phần cứng lẫn phần mềm điện thoại của hãng. Và cả hai sản phẩm oto, máy ảnh đã nêu ở phần đầu bài này.

  • Y học nguồn mở: xem ví dụ

  • Còn nữa … (hỏi cụ Gúc).


Dự án xe ôtô tương lai:

Dự án C,mm,n (phát âm là 'common') là một dự án nguồn mở xây dựng một giải pháp tổng thể về phương tiện di chuyển cá nhân bền vững (sustainable personal mobility) cho tương lai. Về cơ bản nó là một kiểu xe chạy điện nhưng không phải chỉ có thiết kế xe mà cả hệ thống trạm nạp, điều khiển, tín hiệu, ...Ai cũng có thể tham gia dự án này, đóng góp các ý tưởng, phương án, thiết kế; sửa đổi, bổ xung những kết quả đã có hoặc tối thiểu là nhận xét, góp ý và sử dụng miễn phí các kết quả của dự án đúng như một dự án phần mềm nguồn mở. Các công trình đóng góp vào dự án cũng được cấp phép sử dụng theo một giấy phép nguồn mở.

Hiện dự án đã đạt tới phiên bản C,mm,n car 2.0. Nội dung cụ thể xem tại đây.

Máy ảnh Frankencamera

Máy ảnh Frankencamera là một trong hai dự án con của dự án Camera, một dự án chung của trường đại học Stanford và các công ty Nokia, Adobe Systems, Kodak, Hewlett-Packard, Walt Disney.

Dự án Camera là một dự án về công nghệ chụp ảnh bằng máy tính (computational photography), tức là chụp ảnh, quay video bằng máy ảnh có máy tính bên trong (có thể tạm gọi là máy tính chụp ảnh). Công nghệ ảnh máy tính dùng các phần mềm bên trong máy ảnh điều khiển quá trình chụp, nhằm tăng cường và mở rộng khả năng của công nghệ ảnh số hóa (digital photography). Máy ảnh loại computational photography chụp ra được những bức ảnh mà máy ảnh số bình thường (digital camera) không thể chụp được.

frankencamera 2 0 2 sshbal



Phần cứng của máy ảnh Frankencamera lắp tạp nham từ linh kiện của nhiều loại máy ảnh khác nhau: bo mạch chính của Texas Instruments có các bộ xử lý chung và xử lý ảnh, một màn hình LCD nhỏ, chạy hệ điều hành Linux; chip chụp ảnh lấy của điện thoại Nokia N95, ống kính thì của Canon,... tất cả đều có thể điều khiển bằng phần mềm được.

Mục tiêu của dự án là xây dựng một nền tảng phần mềm (platform) nguồn mở cho việc chụp ảnh và quay video. Vì là nguồn mở nên ai cũng có thể lập trình các tính năng mình thích dưới dạng phần mềm bổ xung (add-ons), tải vào máy cho chạy để chụp ra những bức ảnh mong muốn. Người dùng bình thường cũng có thể kết nối máy ảnh kiểu này vào Internet, chọn phần mềm bổ xung cần thiết tải về máy rồi chụp.

Những ai đã dùng trình duyệt nguồn mở Firefox đều rất quen thuộc với kho tính năng bổ xung add-ons và extensions kiểu này. Có điều đây là máy ảnh.

Nếu không dùng Photoshop, sẽ phải bố trí sân khấu, dàn đèn, máy ảnh, … rất đắt tiền và công phu để đạt được những hiệu ứng tương tự. Tương tự, máy tính chụp ảnh hứa hẹn sẽ tạo nên một cuộc cách mạng trong nghệ thuật nhiếp ảnh vì:

  • Chỉ dùng những máy ảnh rẻ tiền chụp được các bức ảnh cao cấp, thậm chí có những tính năng mà máy ảnh thường không thể đạt được.

  • Cho phép người chụp tự trang bị tính năng cần thiết cho máy ảnh bằng các phần mềm tải về từ Internet.


Và cuộc cách mạng đó là dựa trên mô hình nguồn mở!