3/27/09

Sửa, khôi phục ổ cứng, hệ thống file, file bị xoá bằng TestDisk và PhotoRec.

TestDisk và PhotoRec là các công cụ mạnh chạy trên nhiều hệ điều hành (Windows, DOS, Vista, Linux, MacOS,...) để:

  • Sửa một ổ cứng không boot được:

    • Khôi phục lại boot sector của FAT32/NTFS từ bản backup.

    • Tạo lại (rebuild) boot sector FAT12/FAT16/FAT32/NTFS.



  • Chữa bảng FAT bị hỏng.

  • Chữa Master File Table (MFT) từ bản mirror.

  • Tìm các SuperBlock backup của ext2/ext3.

  • Khôi phục các file bị xoá ở các partitions FAT, NTFS và ext2/ext3.

  • Copy file từ các partitions FAT, NTFS, ext2/ext3 đã bị xoá.

  • Chữa bảng partitions bị hỏng, khôi phục các partitions bị mất.


PhotoRec nằm trong bộ TestDisk dùng undelete hơn 180 loại file, đặc biệt là các file video, ảnh trên thẻ nhớ, ổ USB, ...

Người bình thường và các chuyên gia đều có thể dùng.

So với một số công cụ khác tương tự (Foremost, Scalpel,...), TestDisk và PhotoRec dễ dùng hơn vì có màn hình hướng dẫn qua từng bước.

Hướng dẫn chi tiết (tiếng Việt) tải về tại đây (file TestDisk va PhotoRec.pdf)

3/24/09

Cài máy in Canon trong Ubuntu Intrepid (8.10)

Một số máy in Canon sau đây: LBP-1120, 1210, 2900, 3000, 3200, 3210, 3300, 3500, 5000, 5100, 5300. dùng chung một driver CAPT của chính hãng. Driver này miễn phí nhưng nguồn đóng nên thường không được cài sẵn trong các bản Linux.

CHÚ Ý: driver CAPT chỉ dùng được khi máy in nối với máy tính qua cổng USB.

Một số máy in Canon khác (LBP1000, ...) đã có sẵn driver trong Linux thì không cần theo hướng dẫn này.



Tuy nhiên cũng giống như Mandriva 2009.0, khi cắm và bật, ví dụ máy in Canon LBP-1210, Ubuntu sẽ nhận được máy và tự cài. Nhấn vào menu System Administration Printing ta sẽ có màn hình với máy in LBP-1210 đã cài, nhấn phím phải chuột vào đó, chọn Propeties, màn hình sau xuất hiện:


Phần Description đúng vì thông tin này do máy in cung cấp. Phần Make and Model sai vì hiện không có driver CAPT cài trên máy, Ubuntu sẽ chọn driver của LBP-1000 thay thế nhưng nếu in thì không in được.


Các hướng dẫn dưới đây về cơ bản theo hướng dẫn tại đây có sửa và bổ xung thêm chút ít.



1- Google search cụm từ “CAPT Printer Driver” ta sẽ tìm được ví dụ trang này có chứa driver cần tìm. Mở trang đó, cuốn xuống dưới cùng, tìm đến chỗ dưới đây ứng với driver version 1.60 (version mới hơn 1.80 không làm việc được với Ubuntu 8.10):



2- Nhấn vào dòng Canon CAPT Printer Driver for Linux (1.60) sang trang tiếp, cuốn xuống dưới đến mục sau:

3- Nhấn vào dòng CAPTDRV160.tar.gz để tải file đó về. Nhấn phím phải chuột vào file, chọn Extract Here, file được giải nén thành thư mục CAPTDRV160.


4- Mở thư mục CAPTDRV160/Driver/debian. Nhấn vào file cndrvcups-common_1.60-1_i386.deb để cài trước, sau đó nhấn tiếp vào file cndrvcups-capt_1.60-1_i386.deb để cài tiếp.


5- Khởi động lại máy tính để Ubuntu nhận các driver mới cài.



6- Mở Terminal, chạy lần lượt hai lệnh sau (copy hai lệnh sau rồi paste vào terminal cho nhanh và đỡ nhầm):

sudo /usr/sbin/lpadmin -p LBP1210 -m CNCUPSLBP1210CAPTK.ppd -v ccp:/var/ccpd/fifo0 -E

(lệnh viết liên tục thành một hàng, không xuống dòng) rồi Enter.


sudo /usr/sbin/ccpdadmin -p LBP1210 -o /dev/usb/lp0 rồi Enter.




    Lệnh đầu đăng ký máy in với trình quản lý hàng đợi  (print spooler). Lệnh thứ hai đăng ký máy in với ccpd (Canon Printer daemon for CUPS, trình quản lý máy in Canon).
    CHÚ Ý: hai lệnh sau viết ví dụ cho máy in Canon LBP-1210. Nếu cài máy in Canon khác phải thay các cụm LBP1210 bằng cụm tương ứng (ví dụ: LBP2900)
    Khi lệnh thứ hai thực hiện thành công, màn hình có thông báo như sau:



7- Chạy tiếp lệnh sau để backup file ccpd:



    sudo mv /etc/init.d/ccpd ccpdold

8- Copy toàn bộ đoạn mã lệnh sau đây:


#
# ccpd startup script for Canon Printer Daemon for CUPS
#
# Modified for Debian GNU/Linux
# by Raphael Doursenaud <rdoursenaud@free.fr>
# and Markovtsev Vadim <markhor@mail.ru>

DAEMON=/usr/sbin/ccpd
LOCKFILE=/var/lock/subsys/ccpd
PATH=/usr/local/sbin:/usr/local/bin:/sbin:/bin:/usr/sbin:/usr/bin
NAME=ccpd
DESC="Canon Printer Daemon for CUPS"

test -f $DAEMON || exit 0

. /lib/lsb/init-functions

case $1 in
start)
log_begin_msg "Starting $DESC: $NAME"
start-stop-daemon --start --quiet --exec $DAEMON
log_end_msg $?
;;
stop)
log_begin_msg "Stopping $DESC: $NAME"
start-stop-daemon --stop --quiet --oknodo --exec $DAEMON
log_end_msg $?
;;
status)
echo "$DESC: $NAME:" 'pidof $NAME'
;;
restart)
log_begin_msg "Restarting $DESC: $NAME"
start-stop-daemon --stop --quiet --oknodo --exec $DAEMON
sleep 1
start-stop-daemon --start --quiet --exec $DAEMON
log_end_msg $?
;;
*)
echo "Usage: ccpd {start|stop|restart|status}"
exit 1
;;
esac

exit 0

9- Quay lại màn hình terminal trên, chạy lệnh:



    sudo nano /etc/init.d/ccpd 

(trong đó nano là trình soạn thảo đơn giản. Nếu bị báo lỗi chưa có nano thì nhấn vào System – Administration – Synaptic Package Manager tìm cài nó vào máy.)


Nhấn vào menu Edit – Paste của màn hình terminal để paste toàn bộ các mã lệnh trên vào file ccpd. Nhấn tiếp cặp phím Ctrl+o (chữ o không phải số 0) để save kết quả lại rồi nhấn Ctrl+x để thoát khỏi nano.


10- Chạy tiếp lệnh sau trong terminal để gán quyền truy cập file ccpd cho mọi người:



    sudo chmod a+x /etc/init.d/ccpd

11- Khởi động ccpd:



    sudo /etc/init.d/ccpd start

12- Cho ccpd tự khởi động mỗi lần khởi động máy:



    sudo update-rc.d ccpd defaults 20

13- Chạy tiếp lệnh sau để khai báo ccpd với trình quản lý an ninh AppArmor:



    sudo gedit /etc/apparmor.d/usr.sbin.cupsd

Trong màn hình gedit




Copy hai dòng sau rồi paste xuống dưới dòng /var/spool/cups/**rw, (như hình trên):



# needed for Canon CAPT driver ###insert 
/var/ccpd/** rw, ###insert

Nhấn nút Save rồi đóng màn hình gedit lại.


14- Khởi động lại máy tính. Sau khi khởi động xong, nhấn vào System – Administration – Printing ta có hình sau:




Trong màn hình trên có hai máy in. Máy LASER-SHOT-LBP-1210 do Ubuntu tự cài không dùng được, nhưng nếu xóa đi, lần sau khởi động máy tính nó lại xuất hiện nên cứ để vậy. Máy thứ hai LBP1210 tương ứng với các động tác cài vừa xong. Nhấn phím phải chuột vào đó rồi chọn Propeties ta có:





Quan sát hình trên, nếu Device URI ccp:/var/ccpd/fifo0Make and ModelCanon LBP1210 CAPT ver 1.5 như trên là được.

Chú ý là mỗi máy in thuộc CAPT có hai driver khác nhau ở cuối tên có chữ K và chữ J. Có nhận xét cho biết trong Ubuntu 7.10 những driver K chiếm nhiều RAM (Ubuntu 8.10 thì không rõ). Nếu cần đổi driver làm như sau:

  • Nhấn vào nút Change ở hàng Make and Model, màn hình sau xuất hiện:





  • Chọn mục Provide PPD file (file driver có đuôi là ppd) rồi nhấn nút có biểu tượng thư mục, tìm đến thư mục /usr/share/cups/model rồi chọn driver như hình sau:




Sau khi chọn xong driver, quay lại màn hình Propeties, nhấn nút Print Test Page để thử.

Nếu không in được, thường là do ccpd không khởi động được. Mở terminal kiểm tra bằng lệnh:
sudo ps ax | grep ccpd

Kết quả như sau là được:



zxc@zxc-desktop:~$ sudo ps ax | grep ccpd  
[sudo] password for zxc:
4639 ?     Ss 0:00 /usr/sbin/ccpd
4733 ? Sl 0:00 /usr/sbin/ccpd
5714 pts/0 R+ 0:00 grep ccpd

Nếu kết quả không giống như trên, thử lệnh sau để khởi động ccpd



 sudo /etc/init.d/ccpd start

Kết quả của lệnh phải như sau:
 * Starting Canon Printer Daemon for CUPS: ccpd                          [ OK ]

Nếu kết quả trên không báo [OK] mà báo [fail] thì bật tắt lại máy in rồi chạy lại lệnh trên.


Quay lại in thử. Nếu được là lỗi không tự khởi động được ccpd, lặp lại các lệnh từ bước 8 xem có sai sót gì không.


CHÚ Ý: vì luôn luôn có hai máy in: một máy LBP1210 cài như trên và một máy LASER-SHOT-LBP-1210 do máy tính tự cài nên phải nhớ là chỉ có máy LBP1210 dùng được. Trong màn hình ở bước 14, nhấn phím phải chuột vào LBP1210 rồi chọn Set As Default để đặt máy in đó là mặc định.





3/23/09

Làm việc với các file Microsoft Office lớn trong OpenOffice

Định dạng gốc của OpenOffice tuân theo chuẩn quốc tế ODF (Open Document Format). File văn bản có đuôi là odt (Open Document Text), bảng tính – ods (Open Document Spreadsheet), trình diễn – odp (Open Document Presentation).

Định dạng gốc của bộ Microsoft Office từ bản MS Office XP về trước không theo một chuẩn quốc tế nào mà là chuẩn riêng của Microsoft. Nhưng vì MS Office quá phổ biến nên nó thành chuẩn mặc định của các file văn phòng. Gần đây, Microsoft có đề xuất một chuẩn định dạng văn bản mới mở rộng từ chuẩn cũ của hãng gọi là Office Open XML (viết tắt OOXML hoặc Open XML, đã được chấp nhận là chuẩn quốc tế sau một cuộc chiến đấu căng thẳng). Bản Microsoft Office 2007 theo chuẩn này và các phần mở rộng của tên file có thêm chữ x (docx, xlsx, pptx…). OpenOffice 3.0 có thể mở được các file này nhưng không save được theo định dạng đó.

Khi mở các file Microsoft Office bằng OpenOffice, vì định dạng MS Office không phải định dạng gốc nên OpenOffice sẽ thực hiện việc import và convert các object của file. Vì vậy:

  • Nếu file lớn, quá trình mở file và save file sẽ lâu.

  • Chạy các file PowerPoint lớn bằng Impress chậm hơn chạy trên PowerPoint.


Các cách giải quyết:

1- Nếu file đó không dùng để gửi sang các máy có MS Office:

Tốt nhất là save as sang các định dạng ODF (file văn bản là odt, bảng tính ods, trình diễn odp). Khi đó mở file, save file nhanh, chạy file trình diễn cũng nhanh và tận dụng được mọi tính năng của OpenOffice.

2- Nếu file đó trong quá trình soạn sửa phải gửi sang các máy có MS Office để người khác xem, sửa, ghi chú, v.v...Các bộ MS Office không đọc được định dạng ODF nên phải gửi file theo định dạng của Microsoft. Vấn đề đặt ra là ta muốn đồng thời:

  1. Khi mở file, soạn, sửa bằng OpenOffice thì dùng các file ODF để mở nhanh, sử dụng được đầy đủ các tính năng của OpenOffice.

  2. Trong quá trình soạn, sửa vẫn gửi được file theo định dạng MS Office cho những người khác đang dùng MS Office.

  3. Cả hai loại file trên luôn luôn có nội dung giống nhau trong mỗi lần thay đổi.


Trong OpenOffice có hai extension để giải quyết vấn đề này. Trong OpenOffice đang mở, nhấn vào menu Tools Extensions Manager Get more extensions here. Site Extensions được mở ra trong trình duyệt.

Search lần lượt các extensions MultiDiffMultiSave, nhấn vào nút Get It để tải về các file extension có đuôi là oxt.


Màn hình trên xuất hiện. Hoặc chọn cài ngay (Open With), hoặc tải file về (Save file).

Quay lại OpenOffice, nhấn vào Tools → Extensions Manager → Add tìm đến thư mục chứa hai file oxt cài nó vào OpenOffice.

Khởi động lại OpenOffice. Hai extensions vừa cài sẽ xuất hiện thành hai ô cửa sổ nhỏ. Nhấn chuột vào đó, di nó vào vị trí toolbar còn trống bên phải như hình sau:


MultiDiff:

Nhấn chuột vào biểu tượng MultiDiff, màn hình sau xuất hiện:


Màn hình trên là cấu hình mặc định của MultiDiff:

  • File Name: tên file đang mở hoặc đặt tên file mới

  • Read Only (PDF): ghi file thành file PDF chỉ đọc.

  • Read and Write: Ghi file đang mở thành hai file OpenOffice và Microsoft Office cùng tên.

  • Activate recording of changes: chọn mục này để lưu lại các thay đổi trong file (tương đương với nhấn vào menu Edit → Changes → Record trong OpenOffice).

  • Send: gửi file qua email.

  • Save as: chọn thư mục và thay đổi tên file nếu cần. Nếu đã ghi lần đầu thành hai file, lần sau nhấn Save as màn hình sẽ như sau:


  • Chú ý dòng File type: OpenOffice.org – MS Office nghĩa là file sẽ được ghi thành hai file với hai định dạng khác nhau nhưng nội dung giống hệt nhau.


Muốn thay đổi cấu hình mặc định trên, chọn mục Read and Write rồi nhấn vào More options để có màn hình sau rồi nhấn nút Configure:


Ví dụ có thể chọn luôn luôn lưu thành ba file: PDF, OpenOffice, MS Office.

MultiSave:

MultiSave không có các tính năng SendActivate recording changes nhưng sử dụng đơn giản và trực quan hơn. Nhấn vào icon trên toolbar, màn hình sau xuất hiện:


Chọn thư mục lưu file, tên file và các loại file muốn ghi rồi nhấn nút Save.

Sau khi đã lựa chọn, trong hai extensions trên chỉ cần giữ lại một cái. Nhấn vào menu Tools – Extensions Manager rồi chọn extensions muốn bỏ đi rồi nhấn nút Remove.

Cài máy in Canon trong Mandriva 2009

Một số máy in Canon sau đây: LBP-1120, 1210, 2900, 3000, 3200, 3210, 3300, 3500, 5000, 5100, 5300. dùng chung một driver CAPT của chính hãng. Driver này miễn phí nhưng nguồn đóng nên thường không được cài sẵn trong các bản Linux.

CHÚ Ý: driver CAPT chỉ dùng được khi máy in nối với máy tính qua cổng USB.

Một số máy in Canon khác đã có sẵn driver trong Linux thì không cần theo hướng dẫn này.



Trước đây trên blog này đã có một post hướng dẫn cài trên Mandriva 2008. Bản 2009 dùng một phần mềm cài máy in khác nên có một số điểm khác biệt trình bày dưới đây.

Nhấn vào nút Menu trên thanh panel, rồi nhấn tiếp vào Install & Remove Software. Trong màn hình cài đặt, tìm cài gói system-config-printer, task-printing-server và phần mềm soạn thảo nano.


Nhấn vào icon trên panel để mở Mandriva Linux Control Center. Trong màn hình Control Center nhấn vào Hardware ở cột bên trái rồi nhấn tiếp vào Set up the printer(s). Một màn hình nhỏ hiện lên yêu cầu cài hai gói phần mềm còn thiếu. Nhấn vào nút Install để cài.


(CHÚ Ý: khi cài xong phần này, nếu khởi động lại máy, Mandriva sẽ tự động nhận biết đúng máy in và tự cài. Khi cài xong sẽ có thông báo như sau:


printer1210Model máy in do máy thông báo nên nhận đúng nhưng driver hiện không có nên chương trình dùng driver của máy gần nhất. Khi in thử, thực tế sẽ không in được. Vì vậy việc nhận đúng tên máy in chưa phải là đủ).


Google search cụm từ “CAPT Printer Driver” ta sẽ tìm được ví dụ trang này có chứa driver cần tìm. Mở trang đó, cuốn xuống dưới cùng, tìm đến chỗ dưới đây ứng với driver mới nhất (1.80):




Nhấn vào dòng Canon CAPT Printer Driver for Linux (1.80) sang trang tiếp, cuốn xuống dưới đến mục sau:



Nhấn vào dòng CAPTDRV180.tar.gz để tải file đó về. Nhấn phím phải chuột vào file, chọn Extract - Extract Here, file được giải nén thành thư mục CANON_UK.

Mở thư mục đó, rồi mở tiếp thư mục Doc ta thấy có file guide-capt-1.8xE.tar.gz. Nhấn chuột phải vào file rồi chọn Extract - Extract Here, file được giải nén thành thư mục guide-capt-1.8xE. Mở thư mục đó ra, nhấn chuột vào file manual_contents.html ta sẽ có một trang web hướng dẫn cài đặt. Về cơ bản các bước dưới đây làm theo hướng dẫn đó, có sửa đổi đôi chút cho dễ hơn.





  1. Mở thư mục CANON_UK/Driver/RPM. Nhấn vào file cndrvcups-common-1.80-1.i386.rpm để cài trước, sau đó nhấn tiếp vào file cndrvcups-capt-1.80-1.i386.rpm để cài tiếp. Mandriva dùng dạng đóng gói file cài đặt là rpm nên ta cài các file nói trên. Với những hệ Linux dùng dạng file deb (Ubuntu, Mint,...) thì mở thư mục CANON_UK/Driver/DEB để cài.




  2. Khởi động lại máy tính để Mandriva nhận các driver mới cài.




  3. Mở Terminal, chạy lần lượt ba lệnh sau (copy hai lệnh sau rồi paste vào terminal cho nhanh và đỡ nhầm):






  • su - Enter - nhập password của root rồi Enter tiếp.




  • /usr/sbin/lpadmin -p LBP1120 -m CNCUPSLBP1120CAPTK.ppd -v ccp:/var/ccpd/fifo0 -E (lệnh viết liên tục thành một hàng, không xuống dòng) rồi Enter.




  • /usr/sbin/ccpdadmin -p LBP1120 -o /dev/usb/lp0 rồi Enter.





    Lệnh đầu tiên chuyển sang user root. Lệnh thứ hai đăng ký máy in với trình quản lý hàng đợi (print spooler). Lệnh thứ ba đăng ký máy in với ccpd daemon.
    CHÚ Ý: hai lệnh sau viết ví dụ cho máy in Canon LBP-1120. Nếu cài máy in Canon khác phải thay các cụm LBP1120 bằng cụm tương ứng (ví dụ: LBP2900)
    Khi lệnh thứ ba thực hiện thành công, màn hình có thông báo như sau:






  1. Vẫn trong màn hình Terminal và đăng nhập với quyền root ở trên, chạy lệnh sau:
    nano /etc/rc.local
    trong đó nano là một chương trình soạn thảo trong terminal. Nếu bị báo lỗi chưa có nano thì quay lại Install & Remove Software cài nó vào.



  2. Màn hình nano có file rc.local đã mở như hình sau:








  1. Dùng phím mũi tên di chuyển con trỏ xuống hàng dưới cùng rồi gõ thêm vào hàng sau:
    /etc/init.d/ccpd start
    Nhấn cặp phím Ctrl+o (chữ o không phải số 0) để ghi file đã sửa lại (WriteOut). Sau đó nhấn cặp phím Ctrl+x để thoát khỏi chương trình nano.



  2. Khởi động lại máy tính. Khi khởi động xong, nhấn cặp phím Ctrl+Esc để mở chương trình System Activity. Trong màn hình mở ra, kiểm tra xem ccpd đã chạy chưa.




  3. Mở Mandriva Linux Control Center, nhấn vào Hardware ở cột bên trái rồi nhấn tiếp vào Set up the printer ta sẽ thấy máy in xuất hiện như hình sau (tự nhận, không phải cài):








  1. Nhấn phím phải vào tên máy in rồi nhấn tiếp Propeties ta có màn hình sau:








  1. Chú ý là ở mục Device URI (địa chỉ máy in) phải như trong hình trên (trùng với lệnh đã khai báo ở bước 2). Nhấn Print Test Page để in thử. Nhấn vào các mục khác ở cột bên trái để đặt các tuỳ chọn cho máy in.




  2. Xong.




3/20/09

Vài vấn đề khi sử dụng Mandriva Free 2009.0

Mở file WinWord (file doc):

Khi mở các file WinWord (file doc) bằng OpenOffice, thỉnh thoảng có gặp vấn đề sau:

Trong Mandriva 2008.1 + OpenOffice 2.4 và Mandriva 2009.0 + OpenOffice 3.0, có những file WinWord mở ra bị read-only, không sửa được. Format toolbar bị mờ và khi định sửa sẽ xuất hiện màn hình thông báo:

read-onlyTuy nhiên, permission của file vẫn cho phép write và vì vậy trên đỉnh màn hình, tên file không đi kèm từ read-only như những file không có permission write. Mở kiểm tra lại file trong Windows + WinWord, khi nhấn vào menu Tools thì trong menu xổ xuống có hàng lệnh Unprotect Document, tức là trước đó khi soạn trong Word file đã được đặt chế độ protect. Nhấn vào đó để gỡ bỏ chế độ protect (không thấy hỏi password) rồi save lại thì sang Mandriva mở và soạn thảo bình thường.

Tuy nhiên, cũng file trên khi chưa unprotect vẫn mở soạn thảo được trong Ubuntu 8.10, Kubuntu 8.04.2 và OpenSUSE 11.1 (+ OpenOffice 2.4 và 3.0). Tức là ba hệ sau vượt qua được chế độ Protect của Word, còn Mandriva thì không. Theo đúng nghĩa thì như vậy, Mandriva tương thích tốt hơn với Windows + Word. Sơ bộ như vậy, vấn đề protect file sẽ trình bày kỹ hơn trong một post sau.

Điều nói trên cũng chỉ đúng với Mandriva Free (2 đĩa CD), bản Mandriva One Live CD (1 CD) cũng vượt qua được Protect.

Treo bàn phím:

Lỗi này xảy ra khá nhiều với Mandriva Free 2009.0. Sau một thời gian sử dụng, bàn phím bị treo, không gõ được. Khởi động lại máy hoặc thay bàn phím khác cũng không được. Cách chữa nhanh nhất hiện nay là xoá thư mục /home/<username>/.kde4/config (chú ý kde4 là thư mục ẩn có dấu chấm đằng trước). Sau đó phải config lại KMail.

Tuy nhiên, điều khó là lỗi này không phải mọi máy đều bị nhưng tỷ lệ bị cũng khoảng 15-20% số máy. Kubuntu hầu như không bị lỗi này.

3/18/09

Sửa một số lỗi Linux (phần 2)

Chữa các lỗi kết nối mạng.


Trước tiên kiểm tra xem hệ thống có nhận card mạng không bằng lệnh:



sudo ifconfig -a

Nếu có, card mạng LAN sẽ được ký hiệu là eth0, card wifi là wlan0, ath0 hoặc ngay cả là eth1. Màn hình terminal sẽ có kết quả như sau:



Nếu không thấy có card nào, boot lại máy bằng đĩa Live CD (của hệ Linux khác) rồi chạy lại lệnh trên. Nếu Live CD nhận được card, chạy lệnh sau để xem nó dùng module nào:



sudo lspci -k

sau đó tìm trên web để có driver cần thiết cho hệ Linux đang cài trên máy.


Một số card wireless cần có file firmware đặt trong thư mục /lib/firmware. Khi driver của card được tải vào bộ nhớ, nó sẽ tải file firmware lên bộ nhớ của card. File firmware thường có trong các driver Windows (giải nén các file cab Windows để tìm) hoặc tải từ Internet.


Nếu không tìm được driver cho card thì cách cuối cùng là dùng driver của Windows. Trong Linux có trình NdisWrapper dùng cho việc này.


Trước hết cần cài NdisWrapper từ kho phần mềm của Linux. Sau đó cần tìm file Windows driver của card từ đĩa CD bán kèm theo card. Phải dùng đúng đĩa CD vì một số nhà chế tạo card có thói quen thay đổi chipset của card và do đó thay driver mà không thay đổi model card.


Tải file driver đó (là một file INF trên CD) vào bằng lệnh:



sudo ndiswrapper -i /path/to/driver.inf

Kiểm tra xem driver có làm việc không bằng lệnh:



sudo ndiswrapper -l

Lệnh trên sẽ liệt kê các driver hiện có của ndiswrapper. Tải ndiswrapper vào bộ nhớ bằng lệnh:



sudo modprobe -v ndiswrapper

Chạy lại lệnh ifconfig đã nêu ở trên, card wifi bây giờ sẽ xuất hiện như wlan0 (hoặc eth1, v.v...). Nếu không tìm thấy file INF trên CD, thì rất có thể nó được nén trong một file nén tự dãn dạng exe. Trong Linux, dãn file đó ra bằng lệnh (gói unzip phải đã cài):



unzip /mnt/cdrom/install.exe

Trong phần trước đã hướng dẫn cách tải tự động module khi Linux khởi động. Dùng cách đó để tải NdisWrapper.


Kết nối wifi bao giờ cũng được mã hoá để bảo mật. Nhưng khi đang thử, hãy tạm tắt chức năng mã hoá. Kiểm tra xem router của mạng đừng hạn chế địa chỉ MAC (nhất là khi đang kết nối một máy mới hoặc card wifi mới).


Phần lớn hệ Linux dùng trình Network Manager để quản lý các kết nối. Khi nhấn chuột vào biểu tượng Network Manager trên taskbar, tên các mạng wifi sẽ hiện lên để chọn kết nối. Nếu tên mạng không hiện, kiểm tra xem mạng có đặt ở chế độ thông báo tên mạng (broadcast SSID) không. Một số mạng wifi vì lý do an ninh không thông báo tên mạng.


Cũng có thể kiểm tra các mạng wifi hiện có bằng các lệnh sau:



sudo ifconfig wlan0 up
sudo iwlist wlan0 scan

Lệnh đầu để kích hoạt card wifi, lệnh sau cho hiện danh sách các mạng wifi đang trong vùng phủ sóng. Nếu nhận được thông báo "Interface Doesn't Support Scanning" thì hoặc ta kích hoạt sai card hoặc card không có driver hoặc firmware đúng. Quay lại phần trên để chọn lại driver, firmware.


Nếu kết nối được thành công thì lập tức ngắt kết nối và khôi phục lại chế độ mã hoá của mạng rồi thử kết nối lại. Chế độ mã tốt nhất là WPA2 (nếu card không hỗ trợ thì dùng WPA – Wi-Fi Protected Access). Không nên dùng WEP vì độ an toàn thấp, dễ bị phá.



Mạng Internet có dây.


Nếu truy cập Internet có vẻ không thông, đầu tiên hãy thử dùng lệnh ping đến một địa chỉ đã biết. Ví dụ:



ping www.linuxformat.co.uk

Nếu mạng vẫn thông thì lệnh này sẽ cho biết số gói tin (packet) gửi và nhận tới địa chỉ trên. Nếu không, thử lại một lần nữa:



ping 80.244.178.151

Dãy số trên là địa chỉ IP của site www.linuxformat.co.uk. Nếu lệnh thứ hai làm việc mà lệnh thứ nhất không thì có nghĩa là bạn không phân giải được tên miền thành địa chỉ IP.


Kiểm tra file /etc/resolv.conf xem có chứa các địa chỉ máy chủ DNS của nhà cung cấp dịch vụ Internet không. Nếu trong mạng có router, nên kiểm tra xem địa chỉ IP của router trong file nói trên có đúng không.


Khi ping đến địa chỉ IP không được, hãy thử ping đến địa chỉ DNS server của nhà cung cấp dịch vụ Internet. Nếu ping được thì lỗi là từ chỗ nhà cung cấp thông ra mạng Internet. Một nguyên nhân khác là máy của bạn dùng IPv6, chuẩn IP mới nhưng router không hiểu.


Bước tiếp theo, thử mở giao diện web cấu hình của modem hoặc ping đến modem. Nếu được nghĩa là kết nối giữa modem và nhà cung cấp dịch vụ Internet bị ngắt. Kiểm tra dây cắm trong nhà hoặc báo cho nhà cung cấp.


Cũng có trường hợp, nếu card mạng dùng driver ngoài (không có trong Linux kernel) trước đây đã làm việc tốt, sau khi update kernel sẽ ngừng làm việc. Khi kernel được update, thường vẫn có thể khởi động bằng kernel cũ (các hàng menu dưới có chữ kernel trong menu khởi động), thử khởi động như vậy xem có phải nguyên nhân đó không.



Khắc phục lỗi IPv6


Cập nhật modem: kiểm tra website của nhà sản xuất, tìm firmware để cập nhật modem router cho phép xử lý IPv6. Xem kỹ hướng dẫn.


Thử bằng Firefox: tắt hỗ trợ IPv6 trong Firefox: gõ about:config vào thanh địa chỉ của Firefox rồi Enter. Trong thanh Filter xuất hiện, gõ IPv6. Tìm đến mục network.dns.disableipv6, nhấn phím phải chuột rồi chọn Toggle để chuyển giá trị từ false sang true. Sau đó thử truy cập lại website trước đây không vào được, nếu vào được tức là lỗi do IPv6.


Tắt IPv6 trong Linux: Có thể tắt hỗ trợ IPv6 trong Linux bằng cách sửa file cấu hình /etc/modprobe.conf hoặc /etc/modprobe.d/aliases tuỳ bản Linux. Mở các file đó bằng quyền root rồi bỏ các dòng có IPv6 và thêm hai dòng sau:



alias net-pf-10 off
alias ipv6 off




private:streamPage 3 of 3



Đảng đối lập Ấn độ tuyên bố ủng hộ PMNM

Indian Opposition Party Backs Open Source Software (PC World)


Trước cuộc bầu cử Quốc hội sắp tới, đảng đối lập Bharatiya Janata (BJP) nói nếu họ lên nắm chính quyền, chính phủ sẽ chuẩn hoá theo các tiêu chuẩn mở và phần mềm nguồn mở.

(Ấn độ hiện có 1,2 tỷ dân, đứng thứ hai sau Trung quốc - ND)

BJP là đảng lãnh đạo phe đối lập trong quốc hội Ấn hiện tại đang dùng các quảng cáo online trên website của đảng như một công cụ then chốt trong chiến dịch vận động cho cuộc bầu cử quốc hội sẽ diễn ra vào tháng tới.

Lời hứa chuẩn hoá theo phần mềm nguồn mở là một bước tách khỏi chính sách cũ của đảng: không nghiêng về PMNM hay PMNĐ mà để quyền quyết định cho từng cơ quan chính phủ.

BJP lãnh đạo đất nước từ tháng 9/1999 đến tháng 5/2004. Chính phủ tiếp theo của liên minh Tiến bộ Thống nhất hiện đang cầm quyền cũng tiếp tục chính sách không can thiệp vào việc chọn lựa phần mềm nguồn mở hay đóng.

Tuy nhiên, một số chính quyền bang đã có một số chương trình về PMNM.

Trong tài liệu "Tầm nhìn Công nghệ Thông tin" của BJP (BJP's IT Vision) vừa công bố cũng có một đề xuất cấp cho mỗi công dân Ấn độ một Chứng minh thư quốc gia đa dụng có một mã số công dân duy nhất. Chứng minh thư này sẽ thay thế mọi hệ thống chứng minh thư khác.

BJP cũng có kế hoạch bán các máy tính xách tay giá 200USD cho 10 triệu sinh viên, cho vay không lãi với các sinh viên không đủ tiền trả ngay.

BJP cũng hứa sẽ tạo 12 triệu việc làm outsourcing cho các vùng quê Ấn độ. Sự bùng nổ các công việc outsourcing tại Ấn chưa lan tới các vùng nông thôn, do đó tạo nên làn sóng nhập cư lớn người từ quê ra thành thị.